Thông tin về đất nước, con người Nhật Bản: Văn hóa, du lịch, kinh tế, ẩm thực, lao động việc làm và du học Nhật Bản.

Thứ Năm, 16 tháng 5, 2013

Nhật Bản Today - Nabemono là món ăn được yêu thích trong mùa đông, được chế biến từ hải sản, thịt gà hoặc thịt heo và rau quả. Đây là món ăn nấu trong nồi canh hầm để ngay trên bàn. Thành phần được sắp xếp trên đĩa phẳng để cho mỗi người tự ăn món mình thích.

 Loại nabemono thường gặp là mizutaki, yudofu, udonsaki, kanisuki, dotenabe, shabushabu và sukiyaki. Khách chọn thức ăn còn sống rồi đưa vào cái nồi giữa bàn (giống món lẩu ở Việt Nam). 2 món thông dụng là Mizutaki (lẩu với nước dùng không béo, thịt gà, rau cải, cá) và Yose nabe (thịt gà, hải sản, rau)

Ăn cùng nhau là tính đặc trưng của Nabemono, người châu Á nghĩ rằng ăn chung trong một nồi như vậy sẽ làm tăng tính tập thể và làm cho mối quan hệ giữa con người gần gũi với nhau hơn. Chính vì vậy người Nhật thường hay nói鍋 を 囲む, tức là "ngồi quanh nồi" có ngụ ý rằng nabemono chia sẻ sẽ tạo mối quan hệ ấm áp giữa mọi người khi ăn cùng nhau, Nabemono rất thích hợp để ăn cùng bạn bè hay gia đình.


Cùng thưởng thức Lẩu Nhật Bản 1



Có nhiều loại nabemono khác nhau tùy thuộc vào thành phần sử dụng như: hàu, sò, cá tuyết, cá hồi, rùa và phổ biến nhất là gà. Chanko nabe là thức ăn chính của Sumo Nhật Bản với nhiều loại khác nhau: thịt gà, hải sản, khoai tây và các loại rau, ngoài ra còn có thành phần gạo, mì giúp cho Sumo có thể duy trì một trọng lượng đáng kể khi thi đấu  Nabemono phổ biến nhất tại Nhật là Yosenabe. Yose có nghĩa là " đặt cùng nhau", như vậy cụm từ Yosenabe mang ý nghĩa rằng tất cả mọi thứ như thịt, cá, trứng, đậu hũ, rau được nấu chung trong một nồi. Yosenabe thường được ăn thêm với Miso hoặc nước tương. Các loại nabemono thường gặp là mizutaki, yudofu, udonsuki, sukiyaki với thực phẩm chủ yếu là thịt bò.


Nabemono đôi khi chỉ được gọi là Nabe. Ở Nhật Bản, mỗi địa phương có mỗi loại nabemono đặc trưng riêng


Ishikari- nabe (Hokkaido) gồm có các thành phần: cá hồi, củ cải Nhật, hành tây, đậu hũ, bắp cải, tỏi tây, nấm shiitake


Cùng thưởng thức Lẩu Nhật Bản 2


- Kiritanpo- nanbe (Quận Tohoku) gồm có các thành phần kiritanpo, thịt gà, cây ngưu bàng, rau mùi tây, tỏi tây


Cùng thưởng thức Lẩu Nhật Bản 3


- Houtou- nabe (Huyện Kanto) gồm có các thành phần: bí đỏ, cải bắp Trung Quốc, cà rốt, khoai môn, mì houtou


Cùng thưởng thức Lẩu Nhật Bản 4


- Momiji- nabe( các huyện trung du) gồm các thành phần: thịt nai, cây ngưu bàng, nấm shiitake, tỏi tây, đậu phụ, rau xanh


Cùng thưởng thức Lẩu Nhật Bản 5


Để kích thích khẩu vị khi ăn tabemono, người Nhật thường cho thêm nước sốt vào. Có rất nhiều loại nước sốt, chẳng hạn như nước sốt mè được làm từ vừng, nước tương, rượu sake, tảo bẹ và đường.

Nhật Bản Today - Nabemono là món ăn được yêu thích trong mùa đông, được chế biến từ hải sản, thịt gà hoặc thịt heo và rau quả. Đây là món ăn nấu trong nồi canh hầm để ngay trên bàn. Thành phần được sắp xếp trên đĩa phẳng để cho mỗi người tự ăn món mình thích.

 Loại nabemono thường gặp là mizutaki, yudofu, udonsaki, kanisuki, dotenabe, shabushabu và sukiyaki. Khách chọn thức ăn còn sống rồi đưa vào cái nồi giữa bàn (giống món lẩu ở Việt Nam). 2 món thông dụng là Mizutaki (lẩu với nước dùng không béo, thịt gà, rau cải, cá) và Yose nabe (thịt gà, hải sản, rau)

Ăn cùng nhau là tính đặc trưng của Nabemono, người châu Á nghĩ rằng ăn chung trong một nồi như vậy sẽ làm tăng tính tập thể và làm cho mối quan hệ giữa con người gần gũi với nhau hơn. Chính vì vậy người Nhật thường hay nói鍋 を 囲む, tức là "ngồi quanh nồi" có ngụ ý rằng nabemono chia sẻ sẽ tạo mối quan hệ ấm áp giữa mọi người khi ăn cùng nhau, Nabemono rất thích hợp để ăn cùng bạn bè hay gia đình.


Cùng thưởng thức Lẩu Nhật Bản 1



Có nhiều loại nabemono khác nhau tùy thuộc vào thành phần sử dụng như: hàu, sò, cá tuyết, cá hồi, rùa và phổ biến nhất là gà. Chanko nabe là thức ăn chính của Sumo Nhật Bản với nhiều loại khác nhau: thịt gà, hải sản, khoai tây và các loại rau, ngoài ra còn có thành phần gạo, mì giúp cho Sumo có thể duy trì một trọng lượng đáng kể khi thi đấu  Nabemono phổ biến nhất tại Nhật là Yosenabe. Yose có nghĩa là " đặt cùng nhau", như vậy cụm từ Yosenabe mang ý nghĩa rằng tất cả mọi thứ như thịt, cá, trứng, đậu hũ, rau được nấu chung trong một nồi. Yosenabe thường được ăn thêm với Miso hoặc nước tương. Các loại nabemono thường gặp là mizutaki, yudofu, udonsuki, sukiyaki với thực phẩm chủ yếu là thịt bò.


Nabemono đôi khi chỉ được gọi là Nabe. Ở Nhật Bản, mỗi địa phương có mỗi loại nabemono đặc trưng riêng


Ishikari- nabe (Hokkaido) gồm có các thành phần: cá hồi, củ cải Nhật, hành tây, đậu hũ, bắp cải, tỏi tây, nấm shiitake


Cùng thưởng thức Lẩu Nhật Bản 2


- Kiritanpo- nanbe (Quận Tohoku) gồm có các thành phần kiritanpo, thịt gà, cây ngưu bàng, rau mùi tây, tỏi tây


Cùng thưởng thức Lẩu Nhật Bản 3


- Houtou- nabe (Huyện Kanto) gồm có các thành phần: bí đỏ, cải bắp Trung Quốc, cà rốt, khoai môn, mì houtou


Cùng thưởng thức Lẩu Nhật Bản 4


- Momiji- nabe( các huyện trung du) gồm các thành phần: thịt nai, cây ngưu bàng, nấm shiitake, tỏi tây, đậu phụ, rau xanh


Cùng thưởng thức Lẩu Nhật Bản 5


Để kích thích khẩu vị khi ăn tabemono, người Nhật thường cho thêm nước sốt vào. Có rất nhiều loại nước sốt, chẳng hạn như nước sốt mè được làm từ vừng, nước tương, rượu sake, tảo bẹ và đường.

Nhật Bản Today - Nếu bạn thích đồ ăn Nhật thì cũng nên tìm hiểu về văn hóa ẩm thực của đất nước này. Sẽ có rất nhiều điều thú vụ mà bạn chưa biết đấy! ...

Có thể nói, ẩm thực Nhật Bản là những bữa ăn được bài trí cực kỳ là đẹp mắt, những món sushi độc đáo hay món cá sống sashimi được rất nhiều người hâm mộ trên thế giới… Thế nhưng các ấy có biết bên cạnh những món ăn nổi tiếng như sushi thì nghệ thuật chế biến những món nướng của Nhật Bản cũng thu hút được rất nhiều "fan" không? Từ thời xa xưa, trên bàn ăn Nhật vốn đã không thể thiếu những món nướng rồi. Đến thời đại phát triển của đủ các công cụ phục vụ hiện đại, người Nhật vẫn không hề bỏ quên món ăn truyền thống đó.

Thưởng thức đồ nướng Nhật Bản 1

Trước hết, nhắc đến đồ nướng Nhật, không ai có thể bỏ qua cái tên Teriyaki quen thuộc cả, đó chính là phong cách nướng rất phổ biến của đất nước mặt trời mọc đấy! Teri trong tiếng Nhật chỉ sự giòn, thơm và nâu bóng của bề mặt món ăn. Điều này có được là bởi sốt Teriyaki (thứ nước sốt sánh đặc được làm từ nước tương, rượu sake hoặc rượu mirin, đường hoặc mật ong). Còn Yaki có nghĩa là sự nướng trên lửa. Theo cách truyền thống của Nhật thì thịt, cá sẽ được nhúng vào nước sốt để ướp rồi đem nướng, hay cũng có nơi lại không ướp trước mà dùng chổi quét nước sốt lên bề mặt thịt nhiều lần trong khi nướng các bạn ạ.

Thưởng thức đồ nướng Nhật Bản 2

Ngày nay, chúng ta có thể tìm thấy trên hầu hết các bàn ăn Nhật những món nướng độc đáo, đa dạng và còn chứa nhiều protein nữa chứ. Nghệ thuật ở đây bao gồm cả sự độc đáo trong cách chế biến, tẩm ướp gia vị lẫn sự đa dạng của các phong cách nướng. Dọc theo các con phố ở Nhật, trong những ngày lễ hội, người ta dễ dàng bắt gặp những quán đồ nướng ven đường với chiếc lò nướng sơ khai đơn giản và rẻ tiền với đủ các xiên nướng tỏa ra hương vị hấp dẫn khác nhau. Và từ chính những hàng quán nhỏ giản dị đó, nhiều món ăn đã đi vào thực đơn của các khách sạn lớn đấy!


Thưởng thức đồ nướng Nhật Bản 3


Có thể kể đến như sụn gà xiên nướng, bạch quả nướng muối, tim gà nướng muối hay cá xiên nướng, đặc biệt có món Yakitori (chính là gà xiên nướng kèm với rau í)… Bí mật để làm cho những món nướng này đạt được hiệu quả cao nhất chính là cách tẩm ướp đầy đủ gia vị như gừng, hạt tiêu, mù tạc và nước sốt đặc trưng. Rồi khi bước chân vào những quán ăn đắt tiền, người Nhật đã tạo sự sang trọng cho món ăn dân dã đó bằng cách thay than hoa bằng loại đá nướng Hỏa Sơn có khả năng giữ nhiệt cao. Bằng cách nướng như vậy, thức ăn được làm chín đều từ ngoài vào trong khiến món ăn hấp dẫn về cả hương vị lẫn màu sắc. Thêm vào đó, cách này còn giữ được vị ngọt tự nhiên của nguyên liệu và giảm thiểu nguy cơ gây ung thư của đồ nướng nữa chứ!

Thưởng thức đồ nướng Nhật Bản 4

Cao cấp hơn chút nữa là những bàn nướng từ lâu đã đi vào cả phim ảnh lẫn truyện tranh Nhật, hình ảnh này như trở thành một nét văn hóa riêng của xứ mặt trời mọc. Đó chính là bếp Teppanyaki. Quả là thú vị làm sao khi được ngồi quây quanh một bàn bếp lớn, vừa ăn vừa chiêm ngưỡng những người đầu bếp như những nghệ nhân có cánh tay điêu luyện với các dụng cụ chuyên dụng chế biến món ăn. Nếu như điều làm nên sức hấp dẫn của cách nướng trên than nằm chủ yếu ở cách tẩm ướp gia vị thì với bếp Teppanyaki, điều đó lại nằm ở ngón nghề của những người đầu bếp chuyên nghiệp với những chiêu tung hứng, nhào lộn thức ăn trên bàn bếp vô cùng đẹp mắt. Kết quả là thực khách sẽ được thỏa lòng vô cùng bởi vừa được no mắt lại còn được no bụng.


Ở một số nhà hàng đồ nướng của Nhật, người ta còn sử dụng thêm cả loại lẩu nướng và nướng không khói, chủ yếu là để đáp ứng những người khó tính, cầu kỳ và cũng là những thực khách "rủng rỉnh" cực kỳ. Tuy nhiên, dù là sử dụng loại nào đi chăng nữa thì các món đồ nướng của Nhật vẫn đều thể hiện một sự thống nhất chung. Đó là việc sử dụng nhiều loại gia vị khác nhau, tẩm ướp đậm và hay sử dụng gia vị nồng nữa chứ. Có lẽ nhờ vậy mà người thưởng thức dễ hấp dẫn bởi hương vị đậm đà, thơm ngọt mà không hề có sự tham gia cũng những hóa chất nào của những món ăn này. Bên cạnh đó, còn một yếu tố nữa để làm nên nét độc đáo cho đồ nướng của Nhật, đố biết là cái gì đấy??? Đó chính là nước sốt ăn kèm các bạn ạ. Nguyên liệu chính của đa số các loại nước sốt chính là tương Nhật. Một loại tương có vị ngọt thanh, thơm ngậy, kích thích vị giác của người thưởng thức một cách nhanh chóng. Không chỉ vậy, nước sốt còn được pha chế một cách hài và hòa kết hợp thêm một số gia vị bổ sung khác tạo nên một hương vị riêng, độc đáo và chất lượng nữa.

Thưởng thức đồ nướng Nhật Bản 5

Nền ẩm thưc Nhật đã được bạn bè bốn phương biết đến bởi sự đa dạng và phong phú về nguyên liệu, sự cầu kỳ trong cách chế biến, sự tinh tế trong cách pha trộn giữa màu sắc và hương vị. Không nghiêng về sự hoành tráng như ẩm thực Trung Hoa, người ta luôn tìm thấy sư bắt mắt tinh tế trong những món ăn nhỏ nhắn, xinh xắn của đất nước Phù Tang này. Người ta thường nói, ẩm thực là một cách để nói cho cả thế giới biết con người của đất nước bạn. Và điều này thật chính xác đối với ẩm thực Nhật. Chính sự tỉ mỉ, cầu kỳ nhưng không làm mất đi nét thanh nhã trong viêc chế biến những món ăn Nhật, kể từ đồ nướng cho đến các món ăn cầu kỳ khác nữa đã cho chúng mình và các bạn bè trên khắp thế giới hiểu được thêm nhiều điều về tính cách của con người nơi đây phải không !

Nhật Bản Today - Nếu bạn thích đồ ăn Nhật thì cũng nên tìm hiểu về văn hóa ẩm thực của đất nước này. Sẽ có rất nhiều điều thú vụ mà bạn chưa biết đấy! ...

Có thể nói, ẩm thực Nhật Bản là những bữa ăn được bài trí cực kỳ là đẹp mắt, những món sushi độc đáo hay món cá sống sashimi được rất nhiều người hâm mộ trên thế giới… Thế nhưng các ấy có biết bên cạnh những món ăn nổi tiếng như sushi thì nghệ thuật chế biến những món nướng của Nhật Bản cũng thu hút được rất nhiều "fan" không? Từ thời xa xưa, trên bàn ăn Nhật vốn đã không thể thiếu những món nướng rồi. Đến thời đại phát triển của đủ các công cụ phục vụ hiện đại, người Nhật vẫn không hề bỏ quên món ăn truyền thống đó.

Thưởng thức đồ nướng Nhật Bản 1

Trước hết, nhắc đến đồ nướng Nhật, không ai có thể bỏ qua cái tên Teriyaki quen thuộc cả, đó chính là phong cách nướng rất phổ biến của đất nước mặt trời mọc đấy! Teri trong tiếng Nhật chỉ sự giòn, thơm và nâu bóng của bề mặt món ăn. Điều này có được là bởi sốt Teriyaki (thứ nước sốt sánh đặc được làm từ nước tương, rượu sake hoặc rượu mirin, đường hoặc mật ong). Còn Yaki có nghĩa là sự nướng trên lửa. Theo cách truyền thống của Nhật thì thịt, cá sẽ được nhúng vào nước sốt để ướp rồi đem nướng, hay cũng có nơi lại không ướp trước mà dùng chổi quét nước sốt lên bề mặt thịt nhiều lần trong khi nướng các bạn ạ.

Thưởng thức đồ nướng Nhật Bản 2

Ngày nay, chúng ta có thể tìm thấy trên hầu hết các bàn ăn Nhật những món nướng độc đáo, đa dạng và còn chứa nhiều protein nữa chứ. Nghệ thuật ở đây bao gồm cả sự độc đáo trong cách chế biến, tẩm ướp gia vị lẫn sự đa dạng của các phong cách nướng. Dọc theo các con phố ở Nhật, trong những ngày lễ hội, người ta dễ dàng bắt gặp những quán đồ nướng ven đường với chiếc lò nướng sơ khai đơn giản và rẻ tiền với đủ các xiên nướng tỏa ra hương vị hấp dẫn khác nhau. Và từ chính những hàng quán nhỏ giản dị đó, nhiều món ăn đã đi vào thực đơn của các khách sạn lớn đấy!


Thưởng thức đồ nướng Nhật Bản 3


Có thể kể đến như sụn gà xiên nướng, bạch quả nướng muối, tim gà nướng muối hay cá xiên nướng, đặc biệt có món Yakitori (chính là gà xiên nướng kèm với rau í)… Bí mật để làm cho những món nướng này đạt được hiệu quả cao nhất chính là cách tẩm ướp đầy đủ gia vị như gừng, hạt tiêu, mù tạc và nước sốt đặc trưng. Rồi khi bước chân vào những quán ăn đắt tiền, người Nhật đã tạo sự sang trọng cho món ăn dân dã đó bằng cách thay than hoa bằng loại đá nướng Hỏa Sơn có khả năng giữ nhiệt cao. Bằng cách nướng như vậy, thức ăn được làm chín đều từ ngoài vào trong khiến món ăn hấp dẫn về cả hương vị lẫn màu sắc. Thêm vào đó, cách này còn giữ được vị ngọt tự nhiên của nguyên liệu và giảm thiểu nguy cơ gây ung thư của đồ nướng nữa chứ!

Thưởng thức đồ nướng Nhật Bản 4

Cao cấp hơn chút nữa là những bàn nướng từ lâu đã đi vào cả phim ảnh lẫn truyện tranh Nhật, hình ảnh này như trở thành một nét văn hóa riêng của xứ mặt trời mọc. Đó chính là bếp Teppanyaki. Quả là thú vị làm sao khi được ngồi quây quanh một bàn bếp lớn, vừa ăn vừa chiêm ngưỡng những người đầu bếp như những nghệ nhân có cánh tay điêu luyện với các dụng cụ chuyên dụng chế biến món ăn. Nếu như điều làm nên sức hấp dẫn của cách nướng trên than nằm chủ yếu ở cách tẩm ướp gia vị thì với bếp Teppanyaki, điều đó lại nằm ở ngón nghề của những người đầu bếp chuyên nghiệp với những chiêu tung hứng, nhào lộn thức ăn trên bàn bếp vô cùng đẹp mắt. Kết quả là thực khách sẽ được thỏa lòng vô cùng bởi vừa được no mắt lại còn được no bụng.


Ở một số nhà hàng đồ nướng của Nhật, người ta còn sử dụng thêm cả loại lẩu nướng và nướng không khói, chủ yếu là để đáp ứng những người khó tính, cầu kỳ và cũng là những thực khách "rủng rỉnh" cực kỳ. Tuy nhiên, dù là sử dụng loại nào đi chăng nữa thì các món đồ nướng của Nhật vẫn đều thể hiện một sự thống nhất chung. Đó là việc sử dụng nhiều loại gia vị khác nhau, tẩm ướp đậm và hay sử dụng gia vị nồng nữa chứ. Có lẽ nhờ vậy mà người thưởng thức dễ hấp dẫn bởi hương vị đậm đà, thơm ngọt mà không hề có sự tham gia cũng những hóa chất nào của những món ăn này. Bên cạnh đó, còn một yếu tố nữa để làm nên nét độc đáo cho đồ nướng của Nhật, đố biết là cái gì đấy??? Đó chính là nước sốt ăn kèm các bạn ạ. Nguyên liệu chính của đa số các loại nước sốt chính là tương Nhật. Một loại tương có vị ngọt thanh, thơm ngậy, kích thích vị giác của người thưởng thức một cách nhanh chóng. Không chỉ vậy, nước sốt còn được pha chế một cách hài và hòa kết hợp thêm một số gia vị bổ sung khác tạo nên một hương vị riêng, độc đáo và chất lượng nữa.

Thưởng thức đồ nướng Nhật Bản 5

Nền ẩm thưc Nhật đã được bạn bè bốn phương biết đến bởi sự đa dạng và phong phú về nguyên liệu, sự cầu kỳ trong cách chế biến, sự tinh tế trong cách pha trộn giữa màu sắc và hương vị. Không nghiêng về sự hoành tráng như ẩm thực Trung Hoa, người ta luôn tìm thấy sư bắt mắt tinh tế trong những món ăn nhỏ nhắn, xinh xắn của đất nước Phù Tang này. Người ta thường nói, ẩm thực là một cách để nói cho cả thế giới biết con người của đất nước bạn. Và điều này thật chính xác đối với ẩm thực Nhật. Chính sự tỉ mỉ, cầu kỳ nhưng không làm mất đi nét thanh nhã trong viêc chế biến những món ăn Nhật, kể từ đồ nướng cho đến các món ăn cầu kỳ khác nữa đã cho chúng mình và các bạn bè trên khắp thế giới hiểu được thêm nhiều điều về tính cách của con người nơi đây phải không !

Nhật Bản Today - Ekiben trở nên phổ biến trong đời sống Nhật Bản khi mạng lưới đường sắt tỏa ra khắp nước và ngày nay vẫn là một trong những sở thích của hành khách mỗi khi đi tàu hỏa. Một trong những cái thú lớn nhất khi đi tàu hỏa là vừa được mở hộp cơm nhâm nhi, vừa ngắm phong cảnh thiên nhiên tươi đẹp trôi qua hai bên đường.



Ebiken - Độc đáo ẩm thực hỏa xa Nhật Bản 1


Ebiken - Độc đáo ẩm thực hỏa xa Nhật Bản 2

Đa dạng ekiben



Ekiben là chữ viết tắt của eki-uri-bento, nghĩa là "Cơm hộp bán tại ga tàu hỏa". Tục ăn ekiben xuất hiện ở đất nước mặt trời mọc từ năm 1880. Những hộp cơm đầu tiên được bán tại ga Utsunomiga, tỉnh Tochigi rất giản dị: Hai vắt cơm và vài lát củ cải muối, gói trong miếng bẹ măng tre.

Ebiken - Độc đáo ẩm thực hỏa xa Nhật Bản 3


Ebiken - Độc đáo ẩm thực hỏa xa Nhật Bản 4c

Chẳng bao lâu sau, dọc theo tất cả các tuyến đường sắt đều có bán ekiben. Rồi mỗi địa phương bắt đầu tung ra những hộp cơm giới thiệu đặc sản của mình. Ví như ekiben của tỉnh Kobe kèm những món ăn được chế biến từ thịt bò Kobe Bryant nổi tiếng thế giới. Ekiben của hãng tàu hỏa Bento Ikameshi ở vùng Tohoku lại gồm cơm, mực thẻ (gỏi và chín) chấm nước sốt đậu tương (giá 4,5USD/hộp). Vùng Kanto thì lại giới thiệu đặc sản là cơm vắt, tôm hồng nhồi vỏ sò hấp, nấm xào, rau bạc hà mèo (giá 8,3USD/hộp)…



Ebiken - Độc đáo ẩm thực hỏa xa Nhật Bản 5
Sau Chiến tranh thế giới thứ 2, ngành đường sắt xứ sở hoa anh đào ngày càng phát triển, không những thuận tiện cho việc đi lại của người dân mà còn trở thành một sản phẩm du lịch phổ biến thì ekiben lại càng đa dạng và phong phú cả về kiểu dáng lẫn chất lượng.


Ebiken - Độc đáo ẩm thực hỏa xa Nhật Bản 6

Nhật Bản Today - Ekiben trở nên phổ biến trong đời sống Nhật Bản khi mạng lưới đường sắt tỏa ra khắp nước và ngày nay vẫn là một trong những sở thích của hành khách mỗi khi đi tàu hỏa. Một trong những cái thú lớn nhất khi đi tàu hỏa là vừa được mở hộp cơm nhâm nhi, vừa ngắm phong cảnh thiên nhiên tươi đẹp trôi qua hai bên đường.



Ebiken - Độc đáo ẩm thực hỏa xa Nhật Bản 1


Ebiken - Độc đáo ẩm thực hỏa xa Nhật Bản 2

Đa dạng ekiben



Ekiben là chữ viết tắt của eki-uri-bento, nghĩa là "Cơm hộp bán tại ga tàu hỏa". Tục ăn ekiben xuất hiện ở đất nước mặt trời mọc từ năm 1880. Những hộp cơm đầu tiên được bán tại ga Utsunomiga, tỉnh Tochigi rất giản dị: Hai vắt cơm và vài lát củ cải muối, gói trong miếng bẹ măng tre.

Ebiken - Độc đáo ẩm thực hỏa xa Nhật Bản 3


Ebiken - Độc đáo ẩm thực hỏa xa Nhật Bản 4c

Chẳng bao lâu sau, dọc theo tất cả các tuyến đường sắt đều có bán ekiben. Rồi mỗi địa phương bắt đầu tung ra những hộp cơm giới thiệu đặc sản của mình. Ví như ekiben của tỉnh Kobe kèm những món ăn được chế biến từ thịt bò Kobe Bryant nổi tiếng thế giới. Ekiben của hãng tàu hỏa Bento Ikameshi ở vùng Tohoku lại gồm cơm, mực thẻ (gỏi và chín) chấm nước sốt đậu tương (giá 4,5USD/hộp). Vùng Kanto thì lại giới thiệu đặc sản là cơm vắt, tôm hồng nhồi vỏ sò hấp, nấm xào, rau bạc hà mèo (giá 8,3USD/hộp)…



Ebiken - Độc đáo ẩm thực hỏa xa Nhật Bản 5
Sau Chiến tranh thế giới thứ 2, ngành đường sắt xứ sở hoa anh đào ngày càng phát triển, không những thuận tiện cho việc đi lại của người dân mà còn trở thành một sản phẩm du lịch phổ biến thì ekiben lại càng đa dạng và phong phú cả về kiểu dáng lẫn chất lượng.


Ebiken - Độc đáo ẩm thực hỏa xa Nhật Bản 6

Nhật Bản Today - Có lẽ mùa thu là mùa đẹp nhất ở các miền quê Nhật Bản vì đúng vào vụ gặt. Những cánh đồng biến thành thảm lúa chín vàng, hòa quyện với nền trời trong xanh. Mùa gặt bắt đầu vào tháng 9 ở những vùng nhiệt độ mát mẻ như Hokkaido và Tohoku. Tại những vùng ấm hơn như Kyushu và Okinawa, mùa gặt bắt đầu vào tháng 11. Khi đó, đi tới các cửa hàng bán gạo hoặc siêu thị ở bất cứ nơi đâu trên toàn quốc đều thấy bày bán các bao gạo có đề "gạo mới".

Khái niệm "gạo mới" ở Nhật Bản có nghĩa là loại mới thu hoạch trong năm đó hoặc năm trước. Gạo mới đặc biệt thơm ngon. Gạo mới của Nhật có lượng hơi nước cao nên sau khi nấu rất dẻo, hương thơm và vị ngon tuyệt vời.

Gạo(kome) của người Nhật 1


Gạo là lương thực chính của người Nhật và người ta cho rằng lúa được đưa từ Trung Quốc hoặc bán đảo Triều Tiên tới Nhật trong thời kỳ Yayoi (năm 300 trước công nguyên đến năm 400 sau công nguyên). Việc áp dụng cơ sở khoa học hiện đại trong trồng lúa được bắt đầu vào năm 1904 với các thử nghiệm lai giống, lựa chọn giống thuần chủng, và sau đó, kỹ thuật lai giống bức xạ cũng được áp dụng. Các thử nghiệm đó đã giúp tăng sản lượng, tạo ra những loại lúa chín sớm, chống được sâu bệnh, thời tiết lạnh. Kể từ Thế chiến II, nhờ những cải tiến về đất đai, kỹ thuật bón phân, sự phát triển của các loại phân bón hóa học, thuốc diệt cỏ, trừ sâu, sản lượng trung bình đã tăng lên tới hơn 4 tấn/ha. Từ đầu thập niên 60, máy móc nông nghiệp đã thay thế đáng kể nhân lực và gia súc, nhiều công việc hoàn toàn làm bằng máy.


Có hàng trăm loại gạo ở Nhật Bản và chúng đều có tên riêng. Các loại gạo mà tên có từ hikari, ví như koshihikari, hinohikari, v.v… có nghĩa là "bóng". Các loại gạo có từ nishiki – ví như sasanishiki, kiyonishiki – có nghĩa là "gấm vóc". Loại gạo được ưa chuộng nhất ở Nhật Bản là koshihikari, trong đó ngon nhất là gạo sản xuất ở tỉnh Niigata, nằm bên bờ Biển Nhật Bản. Gạo koshihikari trồng ở vùng này có giá cao hơn, thậm chí gấp đôi gạo bình thường. Ngoài ra, có thể kể tên một số loại gạo nổi tiếng như Nihonbare (nghĩa là "bầu trời trong xanh"), hitomebore ("tình yêu sét đánh") và Akita komachi ("cô gái đẹp Akita").

Gạo người Nhật thường ăn thuộc loại Japonica, tức là loại gạo sau khi nấu lên khá dính và nở. Còn gạo nhập thuộc loại Indica, hơi khô đối với người Nhật. Người Nhật không chỉ dùng gạo nấu cơm mà còn chế biến theo nhiều cách, ví dụ làm bánh dày (mochi) hoặc các loại bánh như dango, sembei, arare. Gạo cũng được dùng làm rượu sake, làm dấm hay dầu rán mirin, hoặc được thêm một loại chất lên men là koji để làm thành thứ đồ uống ngọt gọi là amazake, v,v…

Năm 1962, khi mức tiêu thụ gạo cao nhất, trung bình mỗi người Nhật tiêu thụ 118kg/năm. Nhưng vào năm 1996, con số này giảm gần 50%, xuống chỉ còn 66kg/năm. Theo kết quả một cuộc điều tra gần đây, chỉ 13% những người được hỏi ý kiến cho biết họ ăn cơm thường xuyên 3 bữa mỗi ngày. 60% chỉ ăn 2 bữa cơm và 26% chỉ ăn 1 bữa cơm. Gần 1% những người tham gia cuộc điều tra nói họ không hề ăn cơm.

Tuy mức tiêu thụ gạo giảm đi, gạo vẫn được coi là lương thực chính, còn việc sản xuất và cung cấp gạo luôn là yếu tố chủ chốt của chính sách nông nghiệp. Chính sách về gạo vốn dựa trên Luật kiểm soát lương thực năm 1942, theo đó vấn đề đặt giá và phân phối gạo cũng như nhập khẩu gạo hoàn toàn dưới sự kiểm soát của chính phủ. Nhưng năm 1995, Nhật Bản bắt đầu áp dụng chính sách mới và giá gạo của chính phủ phản ánh giá trên thị trường.

Gạo(kome) của người Nhật 2

Tháng 12/1993, Nhật Bản chính thức công bố mở cửa một phần thị trường gạo của mình. Trong năm đầu tiên (1995), nhập khẩu gạo là 4% thị trường và tỉ lệ này tăng lên dần để đạt tới 8% vào năm 2000. Tuy nhiên, kể từ tháng 4/1999, Nhật Bản quyết định chuyển sang đánh thuế quan đối với gạo nhập khẩu./.

Nhật Bản Today - Có lẽ mùa thu là mùa đẹp nhất ở các miền quê Nhật Bản vì đúng vào vụ gặt. Những cánh đồng biến thành thảm lúa chín vàng, hòa quyện với nền trời trong xanh. Mùa gặt bắt đầu vào tháng 9 ở những vùng nhiệt độ mát mẻ như Hokkaido và Tohoku. Tại những vùng ấm hơn như Kyushu và Okinawa, mùa gặt bắt đầu vào tháng 11. Khi đó, đi tới các cửa hàng bán gạo hoặc siêu thị ở bất cứ nơi đâu trên toàn quốc đều thấy bày bán các bao gạo có đề "gạo mới".

Khái niệm "gạo mới" ở Nhật Bản có nghĩa là loại mới thu hoạch trong năm đó hoặc năm trước. Gạo mới đặc biệt thơm ngon. Gạo mới của Nhật có lượng hơi nước cao nên sau khi nấu rất dẻo, hương thơm và vị ngon tuyệt vời.

Gạo(kome) của người Nhật 1


Gạo là lương thực chính của người Nhật và người ta cho rằng lúa được đưa từ Trung Quốc hoặc bán đảo Triều Tiên tới Nhật trong thời kỳ Yayoi (năm 300 trước công nguyên đến năm 400 sau công nguyên). Việc áp dụng cơ sở khoa học hiện đại trong trồng lúa được bắt đầu vào năm 1904 với các thử nghiệm lai giống, lựa chọn giống thuần chủng, và sau đó, kỹ thuật lai giống bức xạ cũng được áp dụng. Các thử nghiệm đó đã giúp tăng sản lượng, tạo ra những loại lúa chín sớm, chống được sâu bệnh, thời tiết lạnh. Kể từ Thế chiến II, nhờ những cải tiến về đất đai, kỹ thuật bón phân, sự phát triển của các loại phân bón hóa học, thuốc diệt cỏ, trừ sâu, sản lượng trung bình đã tăng lên tới hơn 4 tấn/ha. Từ đầu thập niên 60, máy móc nông nghiệp đã thay thế đáng kể nhân lực và gia súc, nhiều công việc hoàn toàn làm bằng máy.


Có hàng trăm loại gạo ở Nhật Bản và chúng đều có tên riêng. Các loại gạo mà tên có từ hikari, ví như koshihikari, hinohikari, v.v… có nghĩa là "bóng". Các loại gạo có từ nishiki – ví như sasanishiki, kiyonishiki – có nghĩa là "gấm vóc". Loại gạo được ưa chuộng nhất ở Nhật Bản là koshihikari, trong đó ngon nhất là gạo sản xuất ở tỉnh Niigata, nằm bên bờ Biển Nhật Bản. Gạo koshihikari trồng ở vùng này có giá cao hơn, thậm chí gấp đôi gạo bình thường. Ngoài ra, có thể kể tên một số loại gạo nổi tiếng như Nihonbare (nghĩa là "bầu trời trong xanh"), hitomebore ("tình yêu sét đánh") và Akita komachi ("cô gái đẹp Akita").

Gạo người Nhật thường ăn thuộc loại Japonica, tức là loại gạo sau khi nấu lên khá dính và nở. Còn gạo nhập thuộc loại Indica, hơi khô đối với người Nhật. Người Nhật không chỉ dùng gạo nấu cơm mà còn chế biến theo nhiều cách, ví dụ làm bánh dày (mochi) hoặc các loại bánh như dango, sembei, arare. Gạo cũng được dùng làm rượu sake, làm dấm hay dầu rán mirin, hoặc được thêm một loại chất lên men là koji để làm thành thứ đồ uống ngọt gọi là amazake, v,v…

Năm 1962, khi mức tiêu thụ gạo cao nhất, trung bình mỗi người Nhật tiêu thụ 118kg/năm. Nhưng vào năm 1996, con số này giảm gần 50%, xuống chỉ còn 66kg/năm. Theo kết quả một cuộc điều tra gần đây, chỉ 13% những người được hỏi ý kiến cho biết họ ăn cơm thường xuyên 3 bữa mỗi ngày. 60% chỉ ăn 2 bữa cơm và 26% chỉ ăn 1 bữa cơm. Gần 1% những người tham gia cuộc điều tra nói họ không hề ăn cơm.

Tuy mức tiêu thụ gạo giảm đi, gạo vẫn được coi là lương thực chính, còn việc sản xuất và cung cấp gạo luôn là yếu tố chủ chốt của chính sách nông nghiệp. Chính sách về gạo vốn dựa trên Luật kiểm soát lương thực năm 1942, theo đó vấn đề đặt giá và phân phối gạo cũng như nhập khẩu gạo hoàn toàn dưới sự kiểm soát của chính phủ. Nhưng năm 1995, Nhật Bản bắt đầu áp dụng chính sách mới và giá gạo của chính phủ phản ánh giá trên thị trường.

Gạo(kome) của người Nhật 2

Tháng 12/1993, Nhật Bản chính thức công bố mở cửa một phần thị trường gạo của mình. Trong năm đầu tiên (1995), nhập khẩu gạo là 4% thị trường và tỉ lệ này tăng lên dần để đạt tới 8% vào năm 2000. Tuy nhiên, kể từ tháng 4/1999, Nhật Bản quyết định chuyển sang đánh thuế quan đối với gạo nhập khẩu./.

Nhật Bản Today - Đối với lớp người trẻ hiện đại trong cuộc sống ngập tràn các món ngon vật lạ, thức ăn nhanh tiện dụng thì có vẻ món đậu hũ mang một nét gì đó rẻ tiền, nhạt thếch và chán phèo. Một món ăn mà chỉ được nghía đến trong những dịp mùng Một và ngày Rằm. Tuy nhiên chỉ một hai năm gần trở lại đây, món ăn này đã được nhìn dưới ánh mắt khác.

Sứ giả dinh dưỡng
Hiện nay, hiện tượng béo phì, thừa cholesterol khiến cho không ít người lo lắng, các khẩu phần được chấn chỉnh lại hợp lý hơn với tiêu chí "thêm rau, giảm thịt và nói không với mỡ béo". Đồng thời, phong trào yoga và ăn uống dinh dưỡng bảo vệ cơ thể đang thu hút sự quan tâm từ nhiều giới. Đậu hũ bỗng có dịp tìm lại ngôi thứ của mình trong danh sách những thực phẩm có nhiều ích lợi.
Ra đời từ rất lâu tại Nhật Bản, đậu hũ nhanh chóng được truyền bá đến Trung Quốc, Hàn Quốc… và Việt Nam. Được làm từ đậu nành, nên đậu hũ có nhiều dưỡng chất, như phong phú về protêin, muối khoáng, tinh bột…, ít béo, không cholesterol. Đậu hũ cho vị ngon thanh mát, mềm mại và dễ chịu. Khi ăn không gây cảm giác ngán ngấy, dễ tiêu hoá nên thích hợp với mọi người, mọi lứa tuổi kỹ năng mềm cho người Việt

Truyền thống & hiện đại
Miếng đậu hũ truyền thống ra đời qua biết bao nhiêu công đoạn và tốn rất nhiều sức lực của người làm. Đậu phải ngâm nở mềm, xay nhuyễn mịn, nấu thành sữa đậu nành, sau đó trộn với muối hay giấm tuỳ theo cách làm rồi cho vào khuôn có lót vải, ép cho ráo nước để đậu hũ thành hình. Vất vả là thế nhưng đậu hũ vẫn là một món ăn với giá rẻ. Thời hiện đại hoá, miếng đậu hũ bắt đầu được sản xuất bằng máy móc hiện đại, đóng vào hộp hay đóng thành cây tròn và được xuất hiện chễm chệ trên các quầy hàng trong siêu thị.
 
Đậu hũ Nhật Bản - Món ăn thường gặp

Món ngon từ đậu hũ
Đậu hũ sẽ không còn nhạt thếch và chán phèo nếu như bạn biết cách chế biến. Tùy theo món ăn mà có cách chế biến và những tuyệt chiêu riêng.



Đậu hũ thường ngon nhất là chiên trong chảo dầu nóng già cho đến khi vừa vàng mặt. Lớp vỏ bên ngoài giòn nhẹ, dai dai nhưng bên trong vẫn tươi nguyên vị đậu hũ thanh tao. Tuỳ thích kết hợp với sả ớt để thành món đậu hũ muối sả hay các loại xốt hấp dẫn như xốt chua ngọt. Hoặc nhồi nhân vào đậu hũ, chiên lên, xốt cà là có ngay một món mặn dùng kèm với cơm. Nhiều người còn dùng chúng để kho với nấm rơm, nấu canh hay cho vào các món mì, hủ tiếu. Nhất là trong các món chay, đậu hũ luôn chiếm vị trí quan trọng và không thể thiếu.


Bên cạnh đó, loại đậu hũ non, đậu hũ trứng mềm mịn đang là "con cưng" của các vị bếp trưởng để họ sáng chế thành các món ăn lạ miệng. Miếng đậu hũ non mềm thật mềm được "mặc áo" với một lớp bột mỏng tang, thả vào chảo dầu chiên vàng trong tích tắc, vớt ra ngay. Không cần cầu kỳ, chỉ cần chấm với ít muối tiêu nước tương hay tương ớt, ăn ngay. Cắn vỡ lớp áo ngoài giòn ruộm bên ngoài, thì khối đậu hũ non mềm bên trong như chực chờ tan ngay trong vòm miệng, thanh thoát lạ lùng. Nhưng có người bảo, đậu hũ non ngon nhất là phải dùng để nấu canh hay cho vào nước dùng lẩu. Khi ấy, thưởng thức một miếng đậu hũ sẽ mang đến cho người ăn một cảm giác êm đềm, khác lạ và tương phản hoàn toàn so với cảm giác giòn ngọt khi ăn rau, dai dai vị thịt hay ngọt lừ hải sản. Vì vậy chẳng trách sao mà đĩa đậu hũ vừa cho vào nồi lẩu nghi ngút luôn bị "mất tích" một cách nhanh chóng. Chưa hết, nhiều người còn sáng tạo ra món tráng miệng hấp dẫn từ miếng đậu hũ non. Khi không tìm được chén đậu hũ nước đường "chính hiệu", họ liền mua ngay một hộp đậu hũ non về, sau đó thái lát mỏng hay khối vuông, rồi cũng nấu nước đường và gừng sóng sánh, rưới lên rồi ăn ngon lành.

Đậu hũ là món lành tính và "dễ chịu". Khéo léo một chút, sáng tạo một chút là bạn đã có thể tạo ra một món ăn ngon và mới lạ từ khai vị, món chính cho đến tráng miệng với thành phần chính là đậu hũ.

Nhật Bản Today - Đối với lớp người trẻ hiện đại trong cuộc sống ngập tràn các món ngon vật lạ, thức ăn nhanh tiện dụng thì có vẻ món đậu hũ mang một nét gì đó rẻ tiền, nhạt thếch và chán phèo. Một món ăn mà chỉ được nghía đến trong những dịp mùng Một và ngày Rằm. Tuy nhiên chỉ một hai năm gần trở lại đây, món ăn này đã được nhìn dưới ánh mắt khác.

Sứ giả dinh dưỡng
Hiện nay, hiện tượng béo phì, thừa cholesterol khiến cho không ít người lo lắng, các khẩu phần được chấn chỉnh lại hợp lý hơn với tiêu chí "thêm rau, giảm thịt và nói không với mỡ béo". Đồng thời, phong trào yoga và ăn uống dinh dưỡng bảo vệ cơ thể đang thu hút sự quan tâm từ nhiều giới. Đậu hũ bỗng có dịp tìm lại ngôi thứ của mình trong danh sách những thực phẩm có nhiều ích lợi.
Ra đời từ rất lâu tại Nhật Bản, đậu hũ nhanh chóng được truyền bá đến Trung Quốc, Hàn Quốc… và Việt Nam. Được làm từ đậu nành, nên đậu hũ có nhiều dưỡng chất, như phong phú về protêin, muối khoáng, tinh bột…, ít béo, không cholesterol. Đậu hũ cho vị ngon thanh mát, mềm mại và dễ chịu. Khi ăn không gây cảm giác ngán ngấy, dễ tiêu hoá nên thích hợp với mọi người, mọi lứa tuổi kỹ năng mềm cho người Việt

Truyền thống & hiện đại
Miếng đậu hũ truyền thống ra đời qua biết bao nhiêu công đoạn và tốn rất nhiều sức lực của người làm. Đậu phải ngâm nở mềm, xay nhuyễn mịn, nấu thành sữa đậu nành, sau đó trộn với muối hay giấm tuỳ theo cách làm rồi cho vào khuôn có lót vải, ép cho ráo nước để đậu hũ thành hình. Vất vả là thế nhưng đậu hũ vẫn là một món ăn với giá rẻ. Thời hiện đại hoá, miếng đậu hũ bắt đầu được sản xuất bằng máy móc hiện đại, đóng vào hộp hay đóng thành cây tròn và được xuất hiện chễm chệ trên các quầy hàng trong siêu thị.
 
Đậu hũ Nhật Bản - Món ăn thường gặp

Món ngon từ đậu hũ
Đậu hũ sẽ không còn nhạt thếch và chán phèo nếu như bạn biết cách chế biến. Tùy theo món ăn mà có cách chế biến và những tuyệt chiêu riêng.



Đậu hũ thường ngon nhất là chiên trong chảo dầu nóng già cho đến khi vừa vàng mặt. Lớp vỏ bên ngoài giòn nhẹ, dai dai nhưng bên trong vẫn tươi nguyên vị đậu hũ thanh tao. Tuỳ thích kết hợp với sả ớt để thành món đậu hũ muối sả hay các loại xốt hấp dẫn như xốt chua ngọt. Hoặc nhồi nhân vào đậu hũ, chiên lên, xốt cà là có ngay một món mặn dùng kèm với cơm. Nhiều người còn dùng chúng để kho với nấm rơm, nấu canh hay cho vào các món mì, hủ tiếu. Nhất là trong các món chay, đậu hũ luôn chiếm vị trí quan trọng và không thể thiếu.


Bên cạnh đó, loại đậu hũ non, đậu hũ trứng mềm mịn đang là "con cưng" của các vị bếp trưởng để họ sáng chế thành các món ăn lạ miệng. Miếng đậu hũ non mềm thật mềm được "mặc áo" với một lớp bột mỏng tang, thả vào chảo dầu chiên vàng trong tích tắc, vớt ra ngay. Không cần cầu kỳ, chỉ cần chấm với ít muối tiêu nước tương hay tương ớt, ăn ngay. Cắn vỡ lớp áo ngoài giòn ruộm bên ngoài, thì khối đậu hũ non mềm bên trong như chực chờ tan ngay trong vòm miệng, thanh thoát lạ lùng. Nhưng có người bảo, đậu hũ non ngon nhất là phải dùng để nấu canh hay cho vào nước dùng lẩu. Khi ấy, thưởng thức một miếng đậu hũ sẽ mang đến cho người ăn một cảm giác êm đềm, khác lạ và tương phản hoàn toàn so với cảm giác giòn ngọt khi ăn rau, dai dai vị thịt hay ngọt lừ hải sản. Vì vậy chẳng trách sao mà đĩa đậu hũ vừa cho vào nồi lẩu nghi ngút luôn bị "mất tích" một cách nhanh chóng. Chưa hết, nhiều người còn sáng tạo ra món tráng miệng hấp dẫn từ miếng đậu hũ non. Khi không tìm được chén đậu hũ nước đường "chính hiệu", họ liền mua ngay một hộp đậu hũ non về, sau đó thái lát mỏng hay khối vuông, rồi cũng nấu nước đường và gừng sóng sánh, rưới lên rồi ăn ngon lành.

Đậu hũ là món lành tính và "dễ chịu". Khéo léo một chút, sáng tạo một chút là bạn đã có thể tạo ra một món ăn ngon và mới lạ từ khai vị, món chính cho đến tráng miệng với thành phần chính là đậu hũ.

Nhật Bản Today - Các món ăn kỳ quặc ở Nhật
1) Sushi côn trùng:

 Bản thân món sushi đã rất khó ăn đối với những người không phải người Nhật bởi có nhiều loại sushi sử dụng thịt sống làm nguyên liệu. Nhưng sushi côn trùng còn kinh dị hơn thế nhiều…  Ngày này côn trùng đã trở thành một món ăn phổ biến ở nhiều nước trên thế giới như Trung Quốc, Campuchia và Nhật Bản cũng không nằm ngoài ngoại lệ.  Họ cũng có nhiều món ăn sử dụng côn trùng, trong đó phải kể đến món sushi côn trùng.ư



Các món ăn kỳ quặc ở Nhật 1

Món sushi kinh dị này do nhà văn Nhật Shoichi Uchiyama làm nên, nhà văn 58 tuổi này đã viết sách nấu ăn trong đó có 70 thực đơn là các món làm từ côn trùng và trong đó có món sushi này.Anh Shoichi còn nói rằng anh thích ăn nhện nhất vì thịt nhện rất mềm và thơm ngon. Ngoài ra anh Shoichi còn cho biết cách tốt nhất để nấu côn trùng là... rim chúng trong chảo.

2) Kem kiểu Nhật:

Nhật Bản nổi tiếng với các loại kem có mùi vị... khó hiểu như: cá, bạch tuộc, tôm, thịt ngựa, lưỡi bò... màu sắc của những loại kem này thực sự cũng không được đẹp cho lắm. Còn về hương vị thì đương nhiên là không phải ai cũng có thể ăn được rùi.

Các món ăn kỳ quặc ở Nhật 2
Kem thịt ngựa.


Các món ăn kỳ quặc ở Nhật 3

Kem rắn độc.

3) Món ăn lên men:

Nói đến những món ăn lên men của Nhật Bản thì phải kể đến đậu nành lên men hay còn gọi là Natto. Đây là món ăn rất nặng mùi màu nâu, bùi, có nhiều chất dịch nhớt và dính, món ăn này được dùng phổ biến trong các bữa sáng của Nhật Bản đấy.


Các món ăn kỳ quặc ở Nhật 4

Món ăn truyền thống trong các bữa sáng của người Nhật. Ngoài ra còn có hải sản lên men, ví dụ như Shiokara.  Shiokara là món hải sản lên men được chế biến từ nhiều loại cá kết hợp với muối. Thực sự là nhiều người sẽ không dám ăn


Các món ăn kỳ quặc ở Nhật 5

4) Món cá độc:

Món cá độc hay còn gọi là Fugu là một món ăn thường được làm từ cá nóc, thịt cá nóc ăn được nhưng gan, da, buồng trứng của loài cá này lại chứa một lượng nọc độc có thể gây chết người. Nếu ăn phải chất độc của cá nóc thì sẽ bị tê liệt cơ bắp. Để chế biến món ăn này đòi hỏi nhà hàng phải có những đầu bếp trình độ rất cao.

Các món ăn kỳ quặc ở Nhật 6

5)  Món ăn từ các bộ phận sinh dục của cá:

Món ăn này được chế biến từ sinh dục của cá và có tên là Shirako, đây là món phổ biến tại các quán rượu và quán sushi ở Nhật.

Các món ăn kỳ quặc ở Nhật 7

6) Cá sống:

Những con cá nhỏ xíu trong suốt này có tên là Shirouo và chúng được người ta ăn sống, khi bạn ăn món này những chú cá sẽ nhảy trong miệng.

Các món ăn kỳ quặc ở Nhật 8

7)  Côn trùng thủy sinh

 Côn trùng thủy sinh hay còn gọi là Zazamushi là món ăn khá phổ biến tại quốc gia này, nguyên liệu cho món ăn này là những con côn trùng thủy sinh sống tại bờ sông.

Các món ăn kỳ quặc ở Nhật 9

8) Ong bắp cày:

 Món ăn này là bánh quy ong bắp cày, món bánh quy này có nhân là những con ong được bắt trực tiếp trong rừng. Và điều thú vị là những chiếc bánh này được nướng và phân phát vởi những người thuộc... câu lạc bộ yêu ong. Ngoài ra người Nhật còn ăn ong bắp cày nấu với gạo, đường và nước tương.

Các món ăn kỳ quặc ở Nhật 10

9)  Thịt ngựa sống:

 Basashi món thịt ngựa sống là món ăn đặc sản của vùng Tohoku, Nhật Bản, người ta thường thái thịt ngựa thành những lát mỏng và ăn sống.

Các món ăn kỳ quặc ở Nhật 11

Nhật Bản Today - Các món ăn kỳ quặc ở Nhật
1) Sushi côn trùng:

 Bản thân món sushi đã rất khó ăn đối với những người không phải người Nhật bởi có nhiều loại sushi sử dụng thịt sống làm nguyên liệu. Nhưng sushi côn trùng còn kinh dị hơn thế nhiều…  Ngày này côn trùng đã trở thành một món ăn phổ biến ở nhiều nước trên thế giới như Trung Quốc, Campuchia và Nhật Bản cũng không nằm ngoài ngoại lệ.  Họ cũng có nhiều món ăn sử dụng côn trùng, trong đó phải kể đến món sushi côn trùng.ư



Các món ăn kỳ quặc ở Nhật 1

Món sushi kinh dị này do nhà văn Nhật Shoichi Uchiyama làm nên, nhà văn 58 tuổi này đã viết sách nấu ăn trong đó có 70 thực đơn là các món làm từ côn trùng và trong đó có món sushi này.Anh Shoichi còn nói rằng anh thích ăn nhện nhất vì thịt nhện rất mềm và thơm ngon. Ngoài ra anh Shoichi còn cho biết cách tốt nhất để nấu côn trùng là... rim chúng trong chảo.

2) Kem kiểu Nhật:

Nhật Bản nổi tiếng với các loại kem có mùi vị... khó hiểu như: cá, bạch tuộc, tôm, thịt ngựa, lưỡi bò... màu sắc của những loại kem này thực sự cũng không được đẹp cho lắm. Còn về hương vị thì đương nhiên là không phải ai cũng có thể ăn được rùi.

Các món ăn kỳ quặc ở Nhật 2
Kem thịt ngựa.


Các món ăn kỳ quặc ở Nhật 3

Kem rắn độc.

3) Món ăn lên men:

Nói đến những món ăn lên men của Nhật Bản thì phải kể đến đậu nành lên men hay còn gọi là Natto. Đây là món ăn rất nặng mùi màu nâu, bùi, có nhiều chất dịch nhớt và dính, món ăn này được dùng phổ biến trong các bữa sáng của Nhật Bản đấy.


Các món ăn kỳ quặc ở Nhật 4

Món ăn truyền thống trong các bữa sáng của người Nhật. Ngoài ra còn có hải sản lên men, ví dụ như Shiokara.  Shiokara là món hải sản lên men được chế biến từ nhiều loại cá kết hợp với muối. Thực sự là nhiều người sẽ không dám ăn


Các món ăn kỳ quặc ở Nhật 5

4) Món cá độc:

Món cá độc hay còn gọi là Fugu là một món ăn thường được làm từ cá nóc, thịt cá nóc ăn được nhưng gan, da, buồng trứng của loài cá này lại chứa một lượng nọc độc có thể gây chết người. Nếu ăn phải chất độc của cá nóc thì sẽ bị tê liệt cơ bắp. Để chế biến món ăn này đòi hỏi nhà hàng phải có những đầu bếp trình độ rất cao.

Các món ăn kỳ quặc ở Nhật 6

5)  Món ăn từ các bộ phận sinh dục của cá:

Món ăn này được chế biến từ sinh dục của cá và có tên là Shirako, đây là món phổ biến tại các quán rượu và quán sushi ở Nhật.

Các món ăn kỳ quặc ở Nhật 7

6) Cá sống:

Những con cá nhỏ xíu trong suốt này có tên là Shirouo và chúng được người ta ăn sống, khi bạn ăn món này những chú cá sẽ nhảy trong miệng.

Các món ăn kỳ quặc ở Nhật 8

7)  Côn trùng thủy sinh

 Côn trùng thủy sinh hay còn gọi là Zazamushi là món ăn khá phổ biến tại quốc gia này, nguyên liệu cho món ăn này là những con côn trùng thủy sinh sống tại bờ sông.

Các món ăn kỳ quặc ở Nhật 9

8) Ong bắp cày:

 Món ăn này là bánh quy ong bắp cày, món bánh quy này có nhân là những con ong được bắt trực tiếp trong rừng. Và điều thú vị là những chiếc bánh này được nướng và phân phát vởi những người thuộc... câu lạc bộ yêu ong. Ngoài ra người Nhật còn ăn ong bắp cày nấu với gạo, đường và nước tương.

Các món ăn kỳ quặc ở Nhật 10

9)  Thịt ngựa sống:

 Basashi món thịt ngựa sống là món ăn đặc sản của vùng Tohoku, Nhật Bản, người ta thường thái thịt ngựa thành những lát mỏng và ăn sống.

Các món ăn kỳ quặc ở Nhật 11

Nhật Bản Today - Chỉ là một món ăn hằng ngày, nhưng cơm hộp Bento - thức ăn do người phụ nữ trong gia đình chuẩn bị cho chồng, con đi làm hoặc đi học - thể hiện tình cảm gia đình, tình yêu thương mà người phụ nữ Nhật Bản muốn gửi gắm.

Chữ Bento trong tiếng Nhật có nghĩa đơn giản là cơm hộp. Đây là món ăn truyền thống của người Nhật Bản.

Cơm hộp Bento - Món quà của phụ nữ Nhật 2

Cơm hộp Bento có nguồn gốc từ thói quen sử dụng cơm rang đựng trong một chiếc hộp nhỏ của người Nhật Bản bắt đầu từ khoảng thế kỷ 13. Sau đó món cơm hộp được người Nhật phát triển hơn vào thế kỷ 15, không chỉ sử dụng cơm rang mà còn có xôi, cơm trắng kết hợp với nhiều loại thức ăn. Lúc này, có thêm những cơ sở chế biến đồng loạt hộp đựng cơm Bento với kích thước lớn hơn, sử dụng nhiều hình dáng, màu sắc và chất liệu khác nhau.


Và vào khoảng thế kỷ 17-18, Bento được người Nhật sử dụng nhiều, trở thành thói quen và nay là món ăn truyền thống của đất nước "mặt trời mọc" .


Cơm hộp Bento - Món quà của phụ nữ Nhật 2

Khi bắt đầu tìm hiểu về văn hóa Nhật Bản, tôi rất ấn tượng với nét văn hóa ẩm thực của xứ sở này: Nét tinh tế thể hiện ở sự khéo léo, cầu kỳ. Dù là thức ăn đơn giản, chỉ là món sử dụng hằng ngày thì người Nhật vẫn luôn cẩn thận trong cách thể hiện hình thức đẹp đẽ. Trong đó tiêu biểu là món cơm hộp

.
Từ nhiều thế kỷ nay, cơm hộp Bento rất được ưa chuộng ở Nhật Bản vì sự tiện ích, đơn giản và đặc biệt là nét công phu cũng như tình cảm của người nội trợ gửi gắm.



Gia đình nào ở Nhật cũng đều có sẵn một vài chiếc hộp Bento trong nhà với nhiều hình dáng (hình chữ nhật, hình tròn hay hình trứng) và bằng nhiều chất liệu khác nhau (gỗ, kim loại hoặc nhựa). Vừa đủ chứa thức ăn cho bữa trưa của một người, hộp Bento có nhiều ngăn to bé khác nhau để đựng mỗi loại thức ăn tách biệt và được thiết kế sao để giữ nóng thức ăn tốt nhất.
Cơm hộp Bento được phụ nữ Nhật Bản chuẩn bị cho người chồng mang đi làm, cho con cái đem đến trường lớp qua buổi trưa. Do vậy, đây cũng là món ăn gần gũi nhất với người Nhật và thường xuyên thấy nơi công sở, trường học và ngay cả nhà máy sản xuất hay công trường xây dựng ở Nhật Bản.


Người phụ nữ Nhật từ xưa vốn "có tiếng" khéo léo, tỉ mỉ. Bento là thế hiện rõ cho nhận định ấy. Món ăn này không chỉ có hình thức đẹp mà thành phần thức ăn được gói gém cũng rất đa dạng và đủ chất. Một hộp Bento luôn có cơm, rau và hoa quả. Ngoài ra, tùy sở thích và thói quen mà dùng kèm một hoặc nhiều loại thức ăn, có thể là thịt, trứng hoặc cá…



Cơm và thức ăn được nấu riêng từ sớm và đến khi người nhà chuẩn bị đi làm (đi học) người nội trợ mới đem bày biện vào hộp. Cũng giống như nhiều công việc khác, người Nhật luôn đòi hỏi sự chu đáo và hoàn hảo. Do vậy, không chỉ là đủ chất và ngon miệng, cơm hộp Bento còn được người phụ nữ cầu kỳ trong khâu trình bày.


Cơm hộp Bento - Món quà của phụ nữ Nhật 3

Đồ ăn được sắp xếp khéo léo trong từng ô nhỏ với nhiều hình dáng hoa văn đẹp đẽ, bắt mắt. Đôi khi họ xếp những họa tiết theo hình ảnh, con chữ… để nhắn gửi tình cảm của mình, cũng có khi chỉ đơn giản là sắp xếp đẹp đẽ khiến món thêm ngon miệng hơn

Ngày nay, ở nước Nhật có nhiều nhà hàng, siêu thị bày bán cơm hộp Bento. Nhưng người nội trợ trong gia đình truyền thống Nhật Bản luôn dành thời gian để chuẩn bị món cơm hộp này mỗi sáng. Đó không đơn thuần là món ăn mà là nét văn hóa cũng như tình cảm của người phụ nữ Nhật Bản dành cho gia đình mình.


Quả thực, Bento là một món đặc biệt gửi gắm hình ảnh và tình yêu thương của những người mẹ, người vợ xứ sở hoa anh đào.

Nhật Bản Today - Chỉ là một món ăn hằng ngày, nhưng cơm hộp Bento - thức ăn do người phụ nữ trong gia đình chuẩn bị cho chồng, con đi làm hoặc đi học - thể hiện tình cảm gia đình, tình yêu thương mà người phụ nữ Nhật Bản muốn gửi gắm.

Chữ Bento trong tiếng Nhật có nghĩa đơn giản là cơm hộp. Đây là món ăn truyền thống của người Nhật Bản.

Cơm hộp Bento - Món quà của phụ nữ Nhật 2

Cơm hộp Bento có nguồn gốc từ thói quen sử dụng cơm rang đựng trong một chiếc hộp nhỏ của người Nhật Bản bắt đầu từ khoảng thế kỷ 13. Sau đó món cơm hộp được người Nhật phát triển hơn vào thế kỷ 15, không chỉ sử dụng cơm rang mà còn có xôi, cơm trắng kết hợp với nhiều loại thức ăn. Lúc này, có thêm những cơ sở chế biến đồng loạt hộp đựng cơm Bento với kích thước lớn hơn, sử dụng nhiều hình dáng, màu sắc và chất liệu khác nhau.


Và vào khoảng thế kỷ 17-18, Bento được người Nhật sử dụng nhiều, trở thành thói quen và nay là món ăn truyền thống của đất nước "mặt trời mọc" .


Cơm hộp Bento - Món quà của phụ nữ Nhật 2

Khi bắt đầu tìm hiểu về văn hóa Nhật Bản, tôi rất ấn tượng với nét văn hóa ẩm thực của xứ sở này: Nét tinh tế thể hiện ở sự khéo léo, cầu kỳ. Dù là thức ăn đơn giản, chỉ là món sử dụng hằng ngày thì người Nhật vẫn luôn cẩn thận trong cách thể hiện hình thức đẹp đẽ. Trong đó tiêu biểu là món cơm hộp

.
Từ nhiều thế kỷ nay, cơm hộp Bento rất được ưa chuộng ở Nhật Bản vì sự tiện ích, đơn giản và đặc biệt là nét công phu cũng như tình cảm của người nội trợ gửi gắm.



Gia đình nào ở Nhật cũng đều có sẵn một vài chiếc hộp Bento trong nhà với nhiều hình dáng (hình chữ nhật, hình tròn hay hình trứng) và bằng nhiều chất liệu khác nhau (gỗ, kim loại hoặc nhựa). Vừa đủ chứa thức ăn cho bữa trưa của một người, hộp Bento có nhiều ngăn to bé khác nhau để đựng mỗi loại thức ăn tách biệt và được thiết kế sao để giữ nóng thức ăn tốt nhất.
Cơm hộp Bento được phụ nữ Nhật Bản chuẩn bị cho người chồng mang đi làm, cho con cái đem đến trường lớp qua buổi trưa. Do vậy, đây cũng là món ăn gần gũi nhất với người Nhật và thường xuyên thấy nơi công sở, trường học và ngay cả nhà máy sản xuất hay công trường xây dựng ở Nhật Bản.


Người phụ nữ Nhật từ xưa vốn "có tiếng" khéo léo, tỉ mỉ. Bento là thế hiện rõ cho nhận định ấy. Món ăn này không chỉ có hình thức đẹp mà thành phần thức ăn được gói gém cũng rất đa dạng và đủ chất. Một hộp Bento luôn có cơm, rau và hoa quả. Ngoài ra, tùy sở thích và thói quen mà dùng kèm một hoặc nhiều loại thức ăn, có thể là thịt, trứng hoặc cá…



Cơm và thức ăn được nấu riêng từ sớm và đến khi người nhà chuẩn bị đi làm (đi học) người nội trợ mới đem bày biện vào hộp. Cũng giống như nhiều công việc khác, người Nhật luôn đòi hỏi sự chu đáo và hoàn hảo. Do vậy, không chỉ là đủ chất và ngon miệng, cơm hộp Bento còn được người phụ nữ cầu kỳ trong khâu trình bày.


Cơm hộp Bento - Món quà của phụ nữ Nhật 3

Đồ ăn được sắp xếp khéo léo trong từng ô nhỏ với nhiều hình dáng hoa văn đẹp đẽ, bắt mắt. Đôi khi họ xếp những họa tiết theo hình ảnh, con chữ… để nhắn gửi tình cảm của mình, cũng có khi chỉ đơn giản là sắp xếp đẹp đẽ khiến món thêm ngon miệng hơn

Ngày nay, ở nước Nhật có nhiều nhà hàng, siêu thị bày bán cơm hộp Bento. Nhưng người nội trợ trong gia đình truyền thống Nhật Bản luôn dành thời gian để chuẩn bị món cơm hộp này mỗi sáng. Đó không đơn thuần là món ăn mà là nét văn hóa cũng như tình cảm của người phụ nữ Nhật Bản dành cho gia đình mình.


Quả thực, Bento là một món đặc biệt gửi gắm hình ảnh và tình yêu thương của những người mẹ, người vợ xứ sở hoa anh đào.

Nhật Bản Today - "Tại Nhật Bản, mọi người đều yêu Korokke" là một câu nhận định không sai khi dành cho món ăn được xếp vào hàng bình dân nalthất khi đặt bên cạnh các món ăn đã được cả thế giới biết đến là "made in Japan" như sushi, sukiyaki, sashimi hay tempura…Dường như bất cứ bà nội trợ Nhật nào cũng đã quen thuộc tới nhắm mắt mà cũng có thể làm ra những viên thịt chiên korokke ngon lành từ những thành phần nguyên liệu thật vô cùng dễ kiếm. 

Người Nhật yêu món Korokke 1

Thành phần tạo nên korokke bao gồm thịt lợn xay nhuyễn, có thể thay đổi thêm ít hải sản như tôm, cá,...rồi bột khoai tây sau đó là bột mì, trứng và vụn bánh mì làm thành lớp vỏ (cùng gia vị và một số thành phần phụ liệu khác) nên khi chiên lên cho korokke cái vị giòn tan đặc biệt.

 Có thể dùng như một món ăn trong bữa chính, cũng có thể "ăn chơi chơi" như một loại "snaltack" khi bạn xem phim, đọc sách…Do sự tiện dụng và dễ làm của món ăn có "vẻ ngoài thật hấp dẫn và đáng yêu" này, tới cả phái nam Nhật Bản cũng rất thích khi tự mình chế biến korokke để các trận bóng chày đêm của mình…thêm hấp dẫn! Nhưng nói vậy thôi chứ với độ phủ sóng của món ăn này tại Nhật mà bạn có thể ào ra các tiệm bánh, tiệm thức ăn nhanh hay thậm chí siêu thị gần nhà để vác về nguyên một tá korokke đó nhé !  


Người Nhật yêu món Korokke 2

Và mặc dù nổi tiếng tại Nhật Bản tới vậy nhưng korokke lại có bắt nguồn từ món thịt viên chiên của Pháp và nó đã xuất hiện cách đây từ đầu thế kỷ 20. Trong khi đó, món ăn này cũng vô cùng phổ biến tại Hàn Quốc và ban đầu, nó được bán rộng khắp tại các hiệu bánh ở đất nước này.

Tuỳ vào thành phần nhân mà có nhiều loại korokke cho bạn lựa chọn. Có korokke thịt bò, cũng có korokke tôm và thậm chí cả korokke kem naltữa chứ. Nghe mới hấp dẫn làm sao ! Mà các bạn thử đoán xem những ai là mê korokke nhất nào? chính là các bé đó nhé ! Vì thành phần gồm thịt xay nhuyễn và khoai tây nghiền vừa thơm, ngọt lại rất bùi rất hợp với khẩu vị của trẻ con. Chưa kể cách chế biến (gần như mọi thành phần đều xay nhỏ, nghiền nhuyễn) cực kỳ phù hợp với trẻ ngay cả khi bé có khoản ăn...vô đối!


Người Nhật yêu món Korokke 3

Nhật Bản Today - "Tại Nhật Bản, mọi người đều yêu Korokke" là một câu nhận định không sai khi dành cho món ăn được xếp vào hàng bình dân nalthất khi đặt bên cạnh các món ăn đã được cả thế giới biết đến là "made in Japan" như sushi, sukiyaki, sashimi hay tempura…Dường như bất cứ bà nội trợ Nhật nào cũng đã quen thuộc tới nhắm mắt mà cũng có thể làm ra những viên thịt chiên korokke ngon lành từ những thành phần nguyên liệu thật vô cùng dễ kiếm. 

Người Nhật yêu món Korokke 1

Thành phần tạo nên korokke bao gồm thịt lợn xay nhuyễn, có thể thay đổi thêm ít hải sản như tôm, cá,...rồi bột khoai tây sau đó là bột mì, trứng và vụn bánh mì làm thành lớp vỏ (cùng gia vị và một số thành phần phụ liệu khác) nên khi chiên lên cho korokke cái vị giòn tan đặc biệt.

 Có thể dùng như một món ăn trong bữa chính, cũng có thể "ăn chơi chơi" như một loại "snaltack" khi bạn xem phim, đọc sách…Do sự tiện dụng và dễ làm của món ăn có "vẻ ngoài thật hấp dẫn và đáng yêu" này, tới cả phái nam Nhật Bản cũng rất thích khi tự mình chế biến korokke để các trận bóng chày đêm của mình…thêm hấp dẫn! Nhưng nói vậy thôi chứ với độ phủ sóng của món ăn này tại Nhật mà bạn có thể ào ra các tiệm bánh, tiệm thức ăn nhanh hay thậm chí siêu thị gần nhà để vác về nguyên một tá korokke đó nhé !  


Người Nhật yêu món Korokke 2

Và mặc dù nổi tiếng tại Nhật Bản tới vậy nhưng korokke lại có bắt nguồn từ món thịt viên chiên của Pháp và nó đã xuất hiện cách đây từ đầu thế kỷ 20. Trong khi đó, món ăn này cũng vô cùng phổ biến tại Hàn Quốc và ban đầu, nó được bán rộng khắp tại các hiệu bánh ở đất nước này.

Tuỳ vào thành phần nhân mà có nhiều loại korokke cho bạn lựa chọn. Có korokke thịt bò, cũng có korokke tôm và thậm chí cả korokke kem naltữa chứ. Nghe mới hấp dẫn làm sao ! Mà các bạn thử đoán xem những ai là mê korokke nhất nào? chính là các bé đó nhé ! Vì thành phần gồm thịt xay nhuyễn và khoai tây nghiền vừa thơm, ngọt lại rất bùi rất hợp với khẩu vị của trẻ con. Chưa kể cách chế biến (gần như mọi thành phần đều xay nhỏ, nghiền nhuyễn) cực kỳ phù hợp với trẻ ngay cả khi bé có khoản ăn...vô đối!


Người Nhật yêu món Korokke 3

Nhật Bản Today - Núi Fuji gọi theo âm Hán Việt là núi Phú Sĩ, thuộc tỉnh Shizuoka, cách Tokyo không đầy 100km về phía Tây Nam. Phú Sĩ là ngọn núi lửa cao nhất Nhật Bản (3776m) với hình chóp nón trông rất hùng vĩ.

Núi Phú Sĩ Nhật Bản 1

Người ta nói rằng, tên của ngọn núi này bắt nguồn từ động từ thổi bật ra" (fuchi) trong ngôn ngữ của người Ainu. Núi Phú Sĩ đã phun trào ít nhất 10 lần kể từ thế kỷ 18. Cho đến nay gần 300 năm đã trôi qua kể từ lần phun trào gần nhất của nó vào năm 1707. Tro bụi, dung nham tung lên hàng trăm km, che phủ cả Tokyo, đồng thời tạo cho ngọn núi này cái đỉnh chóp tuyệt vời như ngày nay. Diện tích của núi vào khoảng 90.76km2.

Lòng chảo phía trong là dấu tích của miệng núi lửa rộng khoảng 500m, sâu 200m. Hiện nay, Phú Sĩ là ngọn núi lửa đã chết, nhưng gần đây vẫn có tin đồn rằng nó có khả năng hoạt động trở lại.

Ngày nay, khí hậu quanh vùng núi rất ổn định. 5 cái hồ lớn ở đây lại càng làm cho cảnh quan ngoạn mục hơn. Hàng năm, núi Phú Sĩ được mở cửa trong vòng hai tháng. Từ ngày 1 tháng 7 người ta làm lễ mở cửa ở núi Gogome thuộc cửa Yoshida. Ngày 31 tháng 8 mọi hoạt động chính thức kết thúc, nhưng trước đó vào ngày 26, 27 lễ đốt lữa đóng cửa núi đã được tiến hành. Ðây là thời gian có khí hậu lí tưởng nhất ở núi Phú Sĩ. Trên đỉnh núi gió nhẹ, nhiệt độ từ 5oc đến 6oc. MặC dù thời gian mở cửa không nhiều, song hàng năm cũng vẫn lôi cuốn khoảng 25 triệu người Nhật Bản và khách nước ngoài đến tham quan, du lịch ở đây.
 
Núi Phú Sĩ Nhật Bản 2

Với người dân Nhật núi Phú Sĩ trở thành "ngọn núi thiêng", "ngọn núi thần" che chở cho nước Nhật, đem đến sự tốt lành, may mắn: thứ nhất Fuji, thứ nhì Naka, thứ ba Nasu. Có nghĩa là, vào đêm mùng một Tết, may mắn nhất là những ngưòi nằm mơ thấy núi Phú Sĩ, thứ nhì là chim ưng,thứ ba là cà tím. Nhiều người sùng bái núi Phú Sĩ đã thành lập một tổ chức tín ngưỡng ngọn núi này gọi là Fuiiko. Việc trèo lên ngọn núi được coi là công việc thiêng liêng mà ai cũng cố gắng được làm một lần trong đời. Những người leo núi thường bắt đầu cuộc hành trình từ buổi chiều, xuyên qua đêm để rồi sáng hôm sau được ngắm nhìn cảnh mặt trời mọc ở trên núi. Từng đoàn người nối đuôi nhau trong màn đêm, ánh đèn pin rực rỡ tiến thẳng lên đỉnh núi, tưởng chừng như một con rồng khổng lồ đang cuộn mình.

Lên đỉnh có 5 đường chính: Kawaguchiko, Subashiri, Fujinomiya, Fuji-Yoshida và Gotemba. Trong khi đi lên đỉnh mất từ 5 đến 9 tiếng thì khi xuống chỉ mất 3 tiếng. Thời tiết có lúc khắc nghiệt, con đường dài khó khăn, hiểm trở, song bước chân tìm về nguồn cội không lúc nào ngơi nghỉ. "Nhật Bản không có núi Phú Sĩ, tựa như nước Mỹ không có "Nữ Thần Tự Do"-người Nhật Bản nói trong niềm tự hào, phấn khởi.

Núi Phú Sĩ Nhật Bản 3
Những ruộng lúa xanh mướt vào mùa xuân.

Núi Phú Sĩ Nhật Bản 4
Đỉnh núi vẫn còn phủ đầy tuyết khi mùa xuân tới, trong khi đó những người dân Nhật Bản đã treo cờ cá chép để chào đón lễ hội mùa xuân.

Núi Phú Sĩ Nhật Bản 5
Cây cối bắt đầu đâm chồi nảy lộc và xanh mướt vào tiết trời cuối xuân.

Núi Phú Sĩ Nhật Bản 6
Mùa hè, dưới chân núi Phú Sĩ phủ đầy hoa rực rỡ.

Núi Phú Sĩ Nhật Bản 7
Cánh đồng hoa hướng dương vàng rực dưới chân núi.

Núi Phú Sĩ Nhật Bản 8
Vào mùa hè, tuyết trên đỉnh Phú Sĩ đã tan hết.

Núi Phú Sĩ Nhật Bản 9
Thời tiết se lạnh cũng khiến tuyết bắt đầu đóng băng trên đỉnh núi.

Núi Phú Sĩ Nhật Bản 10
Mùa đông, cây cối cũng như chìm trong giấc ngủ.

Núi Phú Sĩ Nhật Bản 11
Phú Sĩ trong ánh hoàng hôn mùa đông, lúc này tuyết đã lan tới chân núi.

Nhật Bản Today - Núi Fuji gọi theo âm Hán Việt là núi Phú Sĩ, thuộc tỉnh Shizuoka, cách Tokyo không đầy 100km về phía Tây Nam. Phú Sĩ là ngọn núi lửa cao nhất Nhật Bản (3776m) với hình chóp nón trông rất hùng vĩ.

Núi Phú Sĩ Nhật Bản 1

Người ta nói rằng, tên của ngọn núi này bắt nguồn từ động từ thổi bật ra" (fuchi) trong ngôn ngữ của người Ainu. Núi Phú Sĩ đã phun trào ít nhất 10 lần kể từ thế kỷ 18. Cho đến nay gần 300 năm đã trôi qua kể từ lần phun trào gần nhất của nó vào năm 1707. Tro bụi, dung nham tung lên hàng trăm km, che phủ cả Tokyo, đồng thời tạo cho ngọn núi này cái đỉnh chóp tuyệt vời như ngày nay. Diện tích của núi vào khoảng 90.76km2.

Lòng chảo phía trong là dấu tích của miệng núi lửa rộng khoảng 500m, sâu 200m. Hiện nay, Phú Sĩ là ngọn núi lửa đã chết, nhưng gần đây vẫn có tin đồn rằng nó có khả năng hoạt động trở lại.

Ngày nay, khí hậu quanh vùng núi rất ổn định. 5 cái hồ lớn ở đây lại càng làm cho cảnh quan ngoạn mục hơn. Hàng năm, núi Phú Sĩ được mở cửa trong vòng hai tháng. Từ ngày 1 tháng 7 người ta làm lễ mở cửa ở núi Gogome thuộc cửa Yoshida. Ngày 31 tháng 8 mọi hoạt động chính thức kết thúc, nhưng trước đó vào ngày 26, 27 lễ đốt lữa đóng cửa núi đã được tiến hành. Ðây là thời gian có khí hậu lí tưởng nhất ở núi Phú Sĩ. Trên đỉnh núi gió nhẹ, nhiệt độ từ 5oc đến 6oc. MặC dù thời gian mở cửa không nhiều, song hàng năm cũng vẫn lôi cuốn khoảng 25 triệu người Nhật Bản và khách nước ngoài đến tham quan, du lịch ở đây.
 
Núi Phú Sĩ Nhật Bản 2

Với người dân Nhật núi Phú Sĩ trở thành "ngọn núi thiêng", "ngọn núi thần" che chở cho nước Nhật, đem đến sự tốt lành, may mắn: thứ nhất Fuji, thứ nhì Naka, thứ ba Nasu. Có nghĩa là, vào đêm mùng một Tết, may mắn nhất là những ngưòi nằm mơ thấy núi Phú Sĩ, thứ nhì là chim ưng,thứ ba là cà tím. Nhiều người sùng bái núi Phú Sĩ đã thành lập một tổ chức tín ngưỡng ngọn núi này gọi là Fuiiko. Việc trèo lên ngọn núi được coi là công việc thiêng liêng mà ai cũng cố gắng được làm một lần trong đời. Những người leo núi thường bắt đầu cuộc hành trình từ buổi chiều, xuyên qua đêm để rồi sáng hôm sau được ngắm nhìn cảnh mặt trời mọc ở trên núi. Từng đoàn người nối đuôi nhau trong màn đêm, ánh đèn pin rực rỡ tiến thẳng lên đỉnh núi, tưởng chừng như một con rồng khổng lồ đang cuộn mình.

Lên đỉnh có 5 đường chính: Kawaguchiko, Subashiri, Fujinomiya, Fuji-Yoshida và Gotemba. Trong khi đi lên đỉnh mất từ 5 đến 9 tiếng thì khi xuống chỉ mất 3 tiếng. Thời tiết có lúc khắc nghiệt, con đường dài khó khăn, hiểm trở, song bước chân tìm về nguồn cội không lúc nào ngơi nghỉ. "Nhật Bản không có núi Phú Sĩ, tựa như nước Mỹ không có "Nữ Thần Tự Do"-người Nhật Bản nói trong niềm tự hào, phấn khởi.

Núi Phú Sĩ Nhật Bản 3
Những ruộng lúa xanh mướt vào mùa xuân.

Núi Phú Sĩ Nhật Bản 4
Đỉnh núi vẫn còn phủ đầy tuyết khi mùa xuân tới, trong khi đó những người dân Nhật Bản đã treo cờ cá chép để chào đón lễ hội mùa xuân.

Núi Phú Sĩ Nhật Bản 5
Cây cối bắt đầu đâm chồi nảy lộc và xanh mướt vào tiết trời cuối xuân.

Núi Phú Sĩ Nhật Bản 6
Mùa hè, dưới chân núi Phú Sĩ phủ đầy hoa rực rỡ.

Núi Phú Sĩ Nhật Bản 7
Cánh đồng hoa hướng dương vàng rực dưới chân núi.

Núi Phú Sĩ Nhật Bản 8
Vào mùa hè, tuyết trên đỉnh Phú Sĩ đã tan hết.

Núi Phú Sĩ Nhật Bản 9
Thời tiết se lạnh cũng khiến tuyết bắt đầu đóng băng trên đỉnh núi.

Núi Phú Sĩ Nhật Bản 10
Mùa đông, cây cối cũng như chìm trong giấc ngủ.

Núi Phú Sĩ Nhật Bản 11
Phú Sĩ trong ánh hoàng hôn mùa đông, lúc này tuyết đã lan tới chân núi.

Nhật Bản Today - Quận Shizuoka nằm giữa thủ đô Tokyo và Nagoya đi bằng tàu “đầu đạn” Shinkansen mất khoảng 1,5 giờ từ Tokyo và 50 phút từ Nagoya. Khác hẳn với nhịp sống gấp gáp ở các thành phố lớn, cuộc sống ở Shizuoka chầm chậm, ngưng đọng lại với thời gian.

Shizuoka nhật bản

Tại thị trấn Shizuoka, những ngôi nhà ngói đỏ, nằm ẩn hiện giữa các khu vườn rộng. Bao quanh nhà là các hàng rào bằng gỗ, bằng dâm bụt thấp đến ngang thắt lưng, đủ để ôm quanh các ngôi nhà nhưng không che khuất tầm mắt. Nhà nào cũng có những cánh cổng gỗ treo biển ghi tên chủ nhà như để tỏ lòng hiếu khách.

Một người bạn Nhật cho biết, trong mỗi ngôi nhà ở đây, bàn thờ tổ tiên được đặt trong phòng chính tại vị trí trang trọng nhất, bên dưới là một bếp sưởi nhỏ cho người già khi mùa đông đến. Ở đây, du khách Việt như có cảm giác như đang ở quê mình vì vẫn nghe thấy tiếng ếch kêu sau mưa, tiếng gà gáy sáng. Thiên nhiên đã ưu đãi cho mảnh đất này một khí hậu ôn hoà bậc nhất Nhật Bản. Chẳng thế mà Shizuoka nổi tiếng là vùng đất trồng chè xanh, cam Navel và củ cải Wasabi.
 
Thắng cảnh nổi tiếng nhất Shizuoka là núi Phú Sĩ. Với độ cao 3.776 m so với mặt biển, núi Phú Sĩ đã trở thành biểu tượng của đất nước mặt trời mọc. Chinh phục đỉnh núi Phú Sĩ là ước mơ của nhiều người nhưng không phải ai cũng có khả năng làm điều đó. Ngay dưới chân núi này có khá nhiều người Việt sinh sống và du khách có thể dùng cơm tại nhà hàng Sài Gòn trước khi tham quan hồ Hamanako thơ mộng.
 
Thác Shiraito ở chân núi Phú Sĩ là một địa điểm rất hấp dẫn du khách. Điểm độc đáo của thác này là dòng nước lao thẳng từ độ cao 20 m dội xuống chân núi, từ xa trông nó như một đường chỉ căng trên dãy núi.
 
Một điểm đến khác nổi tiếng không kém núi Phú Sĩ là cây cầu Horai - được ghi vào kỷ lục Guinness là cây cầu gỗ dài nhất thế giới. Cây cầu được dựng từ năm 1879, dài 897 m, nối hai bờ sông Oi.

Nhật Bản Today - Quận Shizuoka nằm giữa thủ đô Tokyo và Nagoya đi bằng tàu “đầu đạn” Shinkansen mất khoảng 1,5 giờ từ Tokyo và 50 phút từ Nagoya. Khác hẳn với nhịp sống gấp gáp ở các thành phố lớn, cuộc sống ở Shizuoka chầm chậm, ngưng đọng lại với thời gian.

Shizuoka nhật bản

Tại thị trấn Shizuoka, những ngôi nhà ngói đỏ, nằm ẩn hiện giữa các khu vườn rộng. Bao quanh nhà là các hàng rào bằng gỗ, bằng dâm bụt thấp đến ngang thắt lưng, đủ để ôm quanh các ngôi nhà nhưng không che khuất tầm mắt. Nhà nào cũng có những cánh cổng gỗ treo biển ghi tên chủ nhà như để tỏ lòng hiếu khách.

Một người bạn Nhật cho biết, trong mỗi ngôi nhà ở đây, bàn thờ tổ tiên được đặt trong phòng chính tại vị trí trang trọng nhất, bên dưới là một bếp sưởi nhỏ cho người già khi mùa đông đến. Ở đây, du khách Việt như có cảm giác như đang ở quê mình vì vẫn nghe thấy tiếng ếch kêu sau mưa, tiếng gà gáy sáng. Thiên nhiên đã ưu đãi cho mảnh đất này một khí hậu ôn hoà bậc nhất Nhật Bản. Chẳng thế mà Shizuoka nổi tiếng là vùng đất trồng chè xanh, cam Navel và củ cải Wasabi.
 
Thắng cảnh nổi tiếng nhất Shizuoka là núi Phú Sĩ. Với độ cao 3.776 m so với mặt biển, núi Phú Sĩ đã trở thành biểu tượng của đất nước mặt trời mọc. Chinh phục đỉnh núi Phú Sĩ là ước mơ của nhiều người nhưng không phải ai cũng có khả năng làm điều đó. Ngay dưới chân núi này có khá nhiều người Việt sinh sống và du khách có thể dùng cơm tại nhà hàng Sài Gòn trước khi tham quan hồ Hamanako thơ mộng.
 
Thác Shiraito ở chân núi Phú Sĩ là một địa điểm rất hấp dẫn du khách. Điểm độc đáo của thác này là dòng nước lao thẳng từ độ cao 20 m dội xuống chân núi, từ xa trông nó như một đường chỉ căng trên dãy núi.
 
Một điểm đến khác nổi tiếng không kém núi Phú Sĩ là cây cầu Horai - được ghi vào kỷ lục Guinness là cây cầu gỗ dài nhất thế giới. Cây cầu được dựng từ năm 1879, dài 897 m, nối hai bờ sông Oi.

Nhật Bản Today - Thành phố Nara (Nara-shi) thuộc tỉnh Nara ở vùng Kinki của Nhật Bản. Nara hiện tại nằm trên khu vực của kinh đô Heijo-kyo được thành lập vào năm 710. Thành phố này đẹp và nổi tiếng nhất Nhật Bản trong thời kỳ trước ăm 784, khi thủ đô của Nhật được chuyển đến nơi khác. Lịch sử Nhật Bản gọi thời này là thời kỳ Nara.

Tên chính thức của thủ đô thời đó được gọi là Heijo-kyo, nhưng còn được gọi là thủ đô Nara có lẽ còn do vị trí của thành phố. Cố đô Nara rất nổi tiếng với các kiến trúc độc đáo của các ngôi chùa. Khi đến Nhật bạn không thể nào không ghé thăm thành phố Nara này.

Bức tường bao quanh thành phố dài khoảng 4,3 km từ phía Đông đến Tây, và 4,8 km từ phía Bắc đến Nam. Một con đường rộng được thiết kế theo kiểu Trung Hoa, rộng khoảng 80 m chạy từ phía Bắc đến Nam ở giữa khu vực trung tâm. Con đường này chạy đến cung điện Heijo, khu vực mà vua và các văn phòng trung ương được đặt ở đó.
 
Vào thời Nara, đạo Phật được mạnh mẽ. Nhiều ngôi chùa lớn đã được dựng xây. Vì người dân họ nghĩ việc xây dựng xây dựng những ngôi chùa lớn thờ Phật này sẽ bảo vệ được vua và nước Nhật. Lúc bấy giờ, Nhật có quan hệ rất tốt với Trung Quốc, nên thành phố Nara đã tiếp thu những sản phẩm văn hóa, nghệ thuật của thời Đường. Trên những ngôi chùa ta vẫn thấy đâu đó dáng dấp những công trình xây dựng, nghệ thuật, điêu khắc... độc đáo của Trung Quốc. Đến ngày nay, nhưng kiến trúc này được xếp vào tài sản quốc gia của đất nước hoa anh đào.
 
Tháng 12 năm 1998, Ủy ban Di sản thế giới đã công nhận một số khu vực và những kiến trúc lịch sử của Nara, gồm cả di tích của các cung điện, rừng cây, chùa chiền... là di sản văn hóa thế giới.
 
Chùa Yakushi
 
Ngôi chùa này đầu tiên được xây dựng vào năm 640 tại Asuka, để là nơi cầu nguyện cho Hoàng hậu khỏi bệnh. Sau đó ngôi chùa được chuyển đến Nara khi thủ đô được chuyển đến đây. Trong ngôi chùa có tượng của Yakushi Nyorai, một biểu tượng sức mạnh của sức khỏe và chữa bệnh.
 
Đền chùa ngự trị trên nhiều đại điểm Phật giáo ở Nhật. Chiều cao thon hình búp măng của chúng nhắc nhở các Phật tử về núi Meru huyền thoại linh thiêng.
 
Những ngôi chùa đẹp nhất tại thành phố Nara 1

Chùa Kofuku là kiến trúc đặc sắc thứ ba của kinh đô Nara. Đây là một trong Thất Đại tự của Nara. Ngôi chùa ngày được chuyển về Nara từ thủ đô trước là Asuka vào năm 710, khi thủ đô được chuyển đến Nara. Ngôi chùa cao 50.8 m gồm 5 tầng.
 
Một ví dụ tiêu biểu cho việc kết hợp hài hòa và yên bình giữa các tôn giáo tại Nhật Bản. Năm 937, một nhà sư của Kofuku-ji đã nhìn thấy trong giấc mơ của mình vị thần Shinto của đền Kasuga, xuất hiện dưới vẻ ngòai của một vị Phật.
 
Chùa Todai

Những ngôi chùa đẹp nhất tại thành phố Nara 2

Đây là ngôi chùa bằng gỗ lớn nhất thế giới, rộng 50 m, dài 57 m và cao 48 m. Chùa cũ được xây dựng từ năm 751 và đã bị phá huỷ vì chiến tranh. Ngôi chùa hiện nay nhỏ hơn, được xây lại vào năm 1692. Trong chùa có pho tượng Đại Phật lớn nhất thế giới cao 14,98m mặt dài 5,33m, mắt 1,02 m, mũi cao 0,5 m tai dài 2,54 m, nặng 550 tấn.
 
Todai đã bị huỷ hoại nhiều do chiến tranh năm 1180 và 1567 và được xây dựng lại 2 lần vào các năm 1183,1692. Trong hai thời kỳ Meji (1868-1922) và Taisho (1912-1926). Todai được nhiều lần tu bổ lớn. Ngày này, tuy đã thu nhỏ chỉ còn bằng 2/3 so với nguyên thủy. Todai vẫn gây một ấn tượng choáng ngợp bởi kích thước đồ sộ cùng nghệ thuật điêu khắc chạm tinh vi và hàng trăm hiện vật quý hiếm.
 
Đền Kasuga
 
Những ngôi chùa đẹp nhất tại thành phố Nara 3

Nằm ở dưới chân ngọn núi thiêng Mifuta, ngôi chùa lớn Kasuga được xây dựng vào năm 768. Núi Mifuta là nơi tiến hành những buổi cầu nguyện những vị thần linh. Bốn công trình xây dựng của ngôi đền đã được xếp là Tài sản Quốc gia và 27 công trình xây dựng khác được xếp vào danh sách những Tài Sản Văn hóa Quan trọng (Important Cultural Properties). Với màu sơn đỏ son, ngôi đền nổi bật lên trong màu xanh của ngôi rừng trên ngọn núi thiêng Mifuta.
 
Ở trước đền, hai bên lối vào, có khoảng 2.000 chiếc đèn bằng đá. Đêm mồng 3 tháng 2 (Setsubun: tiết phân) tất cả các đèn ấy đều được thắp sáng cùng với khoảng 1.000 chiếc đèn bằng đồng treo ở hàng hiên trong đền.
 
Kasuga là ngôi đền thờ dòng họ Fujiware xưa kia, được xây dựng cách Nara 18km về phía Nam. Khi Nara được lấy làm kinh đô thì ngôi đền được dời về vị trí hiện nay và gồm có bốn điện thờ làm theo lối kiến trúc đặc biệt gọi là Kasuga-Zukuri.

Nhật Bản Today - Thành phố Nara (Nara-shi) thuộc tỉnh Nara ở vùng Kinki của Nhật Bản. Nara hiện tại nằm trên khu vực của kinh đô Heijo-kyo được thành lập vào năm 710. Thành phố này đẹp và nổi tiếng nhất Nhật Bản trong thời kỳ trước ăm 784, khi thủ đô của Nhật được chuyển đến nơi khác. Lịch sử Nhật Bản gọi thời này là thời kỳ Nara.

Tên chính thức của thủ đô thời đó được gọi là Heijo-kyo, nhưng còn được gọi là thủ đô Nara có lẽ còn do vị trí của thành phố. Cố đô Nara rất nổi tiếng với các kiến trúc độc đáo của các ngôi chùa. Khi đến Nhật bạn không thể nào không ghé thăm thành phố Nara này.

Bức tường bao quanh thành phố dài khoảng 4,3 km từ phía Đông đến Tây, và 4,8 km từ phía Bắc đến Nam. Một con đường rộng được thiết kế theo kiểu Trung Hoa, rộng khoảng 80 m chạy từ phía Bắc đến Nam ở giữa khu vực trung tâm. Con đường này chạy đến cung điện Heijo, khu vực mà vua và các văn phòng trung ương được đặt ở đó.
 
Vào thời Nara, đạo Phật được mạnh mẽ. Nhiều ngôi chùa lớn đã được dựng xây. Vì người dân họ nghĩ việc xây dựng xây dựng những ngôi chùa lớn thờ Phật này sẽ bảo vệ được vua và nước Nhật. Lúc bấy giờ, Nhật có quan hệ rất tốt với Trung Quốc, nên thành phố Nara đã tiếp thu những sản phẩm văn hóa, nghệ thuật của thời Đường. Trên những ngôi chùa ta vẫn thấy đâu đó dáng dấp những công trình xây dựng, nghệ thuật, điêu khắc... độc đáo của Trung Quốc. Đến ngày nay, nhưng kiến trúc này được xếp vào tài sản quốc gia của đất nước hoa anh đào.
 
Tháng 12 năm 1998, Ủy ban Di sản thế giới đã công nhận một số khu vực và những kiến trúc lịch sử của Nara, gồm cả di tích của các cung điện, rừng cây, chùa chiền... là di sản văn hóa thế giới.
 
Chùa Yakushi
 
Ngôi chùa này đầu tiên được xây dựng vào năm 640 tại Asuka, để là nơi cầu nguyện cho Hoàng hậu khỏi bệnh. Sau đó ngôi chùa được chuyển đến Nara khi thủ đô được chuyển đến đây. Trong ngôi chùa có tượng của Yakushi Nyorai, một biểu tượng sức mạnh của sức khỏe và chữa bệnh.
 
Đền chùa ngự trị trên nhiều đại điểm Phật giáo ở Nhật. Chiều cao thon hình búp măng của chúng nhắc nhở các Phật tử về núi Meru huyền thoại linh thiêng.
 
Những ngôi chùa đẹp nhất tại thành phố Nara 1

Chùa Kofuku là kiến trúc đặc sắc thứ ba của kinh đô Nara. Đây là một trong Thất Đại tự của Nara. Ngôi chùa ngày được chuyển về Nara từ thủ đô trước là Asuka vào năm 710, khi thủ đô được chuyển đến Nara. Ngôi chùa cao 50.8 m gồm 5 tầng.
 
Một ví dụ tiêu biểu cho việc kết hợp hài hòa và yên bình giữa các tôn giáo tại Nhật Bản. Năm 937, một nhà sư của Kofuku-ji đã nhìn thấy trong giấc mơ của mình vị thần Shinto của đền Kasuga, xuất hiện dưới vẻ ngòai của một vị Phật.
 
Chùa Todai

Những ngôi chùa đẹp nhất tại thành phố Nara 2

Đây là ngôi chùa bằng gỗ lớn nhất thế giới, rộng 50 m, dài 57 m và cao 48 m. Chùa cũ được xây dựng từ năm 751 và đã bị phá huỷ vì chiến tranh. Ngôi chùa hiện nay nhỏ hơn, được xây lại vào năm 1692. Trong chùa có pho tượng Đại Phật lớn nhất thế giới cao 14,98m mặt dài 5,33m, mắt 1,02 m, mũi cao 0,5 m tai dài 2,54 m, nặng 550 tấn.
 
Todai đã bị huỷ hoại nhiều do chiến tranh năm 1180 và 1567 và được xây dựng lại 2 lần vào các năm 1183,1692. Trong hai thời kỳ Meji (1868-1922) và Taisho (1912-1926). Todai được nhiều lần tu bổ lớn. Ngày này, tuy đã thu nhỏ chỉ còn bằng 2/3 so với nguyên thủy. Todai vẫn gây một ấn tượng choáng ngợp bởi kích thước đồ sộ cùng nghệ thuật điêu khắc chạm tinh vi và hàng trăm hiện vật quý hiếm.
 
Đền Kasuga
 
Những ngôi chùa đẹp nhất tại thành phố Nara 3

Nằm ở dưới chân ngọn núi thiêng Mifuta, ngôi chùa lớn Kasuga được xây dựng vào năm 768. Núi Mifuta là nơi tiến hành những buổi cầu nguyện những vị thần linh. Bốn công trình xây dựng của ngôi đền đã được xếp là Tài sản Quốc gia và 27 công trình xây dựng khác được xếp vào danh sách những Tài Sản Văn hóa Quan trọng (Important Cultural Properties). Với màu sơn đỏ son, ngôi đền nổi bật lên trong màu xanh của ngôi rừng trên ngọn núi thiêng Mifuta.
 
Ở trước đền, hai bên lối vào, có khoảng 2.000 chiếc đèn bằng đá. Đêm mồng 3 tháng 2 (Setsubun: tiết phân) tất cả các đèn ấy đều được thắp sáng cùng với khoảng 1.000 chiếc đèn bằng đồng treo ở hàng hiên trong đền.
 
Kasuga là ngôi đền thờ dòng họ Fujiware xưa kia, được xây dựng cách Nara 18km về phía Nam. Khi Nara được lấy làm kinh đô thì ngôi đền được dời về vị trí hiện nay và gồm có bốn điện thờ làm theo lối kiến trúc đặc biệt gọi là Kasuga-Zukuri.