Thông tin về đất nước, con người Nhật Bản: Văn hóa, du lịch, kinh tế, ẩm thực, lao động việc làm và du học Nhật Bản.
Hiển thị các bài đăng có nhãn Kinh tế Nhật Bản. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Kinh tế Nhật Bản. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Hai, 3 tháng 6, 2013


Nhật Bản Today - Thị trường chứng khoán Nhật Bản lao dốc không phanh trong khi nền kinh tế chưa có dấu hiệu khởi sắc rõ rệt. Người ta đang hoài nghi về hiệu quả của Abenomics.


Thị trường chứng khoán Nhật Bản liên tục lao dốc trong những phiên gần đây. Phiên hôm nay (3/6), Chỉ số Nikkei 225 giảm 3,7%, xuống còn 13.261,82 điểm – thấp nhất kể từ ngày 18/4. So với hôm 22/5, chỉ số này đã giảm tổng cộng 15%. 

Xu hướng giảm điểm của Thị trường chứng khoán khiến người ta đặt ra câu hỏi về tâm lý hân hoan chào đón chính sách kinh tế Abenomics của Thủ tướng Shinzo Abe. Trong bài báo được đăng tải trên tờ Financial Times, cây bút kỳ cựu Martin Wolf lên tiếng chỉ trích những người đang gạt bỏ ý nghĩ cho rằng Abenomics là một thất bại lớn: “Đây là một điều lố bịch. Abenomics có thể thất bại. Tuy nhiên, chắc chắn nguyên nhân không phải vì lợi suất trái phiếu sẽ tăng lên hay thị trường chứng khoán chao đảo”. 

Ý kiến của Martin Wolf có phần đúng. Đầu tiên, mục tiêu của Abenomics là cho phép Nhật Bản thoát khỏi bẫy giảm phát bằng cách đẩy tăng GDP danh nghĩa và giúp các doanh nghiệp Nhật Bản sử dụng “núi” tiền mặt dư thừa. Tuy nhiên, chắc chắn đây sẽ là một quá trình diễn ra chậm chạp. Trong khi đó, đà tăng của Thị trường chứng khoán (có phần lớn nguyên nhân là hiệu ứng thúc đẩy niềm tin) chỉ giúp ích một phần nhỏ. 

Cho đến nay, vẫn khó để có thể nhận ra những hiệu ứng đối với các khách hàng Nhật Bản. Mặc dù tăng trưởng trong tháng 4, Thị trường chứng khoán Nhật Bản đã giảm mạnh trong tháng 3. Các doanh nghiệp nhỏ cũng ở trong tình trạng tương tự. Shoko Chukin – chỉ số thể hiện niềm tin của các doanh nghiệp nhỏ -  đã sụt giảm 2 tháng liên tiếp. Theo kế hoạch, thuế tiêu dùng sẽ tăng mạnh từ 5% lên 8% trong tháng 4/2014 và lên 10% trong tháng 10/2005. Năm 1997, thuế tiêu dùng tăng lên được cho là đã phá hủy sự phục hồi của nền kinh tế Nhật Bản. Do đó, trong trung hạn, đây là nỗi lo lắng lớn. 

Nhận định về lợi suất trái phiếu của Martin Wolf cần được xem xét lại. Nếu lợi suất trái phiếu chỉ tăng nhẹ như thời gian trước đây, mọi thứ vẫn ổn. Tuy nhiên, nếu lợi suất tăng mạnh, đây là vấn đề nghiêm trọng cho chính phủ Nhật Bản – đất nước có tỷ lệ nợ lớn hơn 200% GDP. Andrew Balls – chuyên gia đến từ quỹ đầu tư trái phiếu lớn nhất thế giới Pimco – cho rằng vẫn chưa rõ liệu Ngân hàng Trung ương Nhật Bản có thể kiểm soát tốt quá trình cân bằng đà tăng của lợi suất trái phiếu (phản ánh nền kinh tế có diễn biến tích cực) với những tác dụng tiêu cực ảnh hưởng đến tình hình tài chính của chính phủ hay không. Tất nhiên, Nhật Bản có thể tài trợ các khoản nợ bằng nguồn vốn trong nước. Tuy nhiên, giống như những gì chuyên gia Rob Carnell của ING đã chỉ ra:

Trong những năm gần đây, vị thế này bắt đầu thay đổi. Cán cân thương mại của Nhật Bản đã chuyển từ trạng thái thặng dư sang thâm hụt. Điều này có thể đe dọa đến vị thế chủ nhà của Nhật Bản trên thị trường trái phiếu chính phủ Nhật Bản (JGB). Hiện nay, thị trường này được sở hữu bởi khu vực tài chính của Nhật Bản. Gần như không có định chế nào có thể thoái vốn khỏi các khoản JGB bởi họ lo sợ sẽ châm ngòi cho một cuộc tháo chạy khỏi loại tài sản này. Tuy nhiên, điều này sẽ không được đảm bảo nếu như các nhà đầu tư nước ngoài trở thành bộ phận chính chi phối thị trường JGB. 

Nếu như lợi suất trái phiếu tăng đột ngột, khu vực tài chính sẽ lỗ lớn. Bởi vậy, Carnell rút ra kết luận giả thiết trên không được phép xảy ra: 

Sự phụ thuộc vào lãi suất và lợi suất trái phiếu ở mức thấp của Nhật Bản cho thấy nước này cần phải duy trì hiện trạng bằng mọi giá. Và, nếu như điều đó có nghĩa là BoJ phải tiếp tục in tiền để mua JGB và kiểm soát lợi suất trái phiếu.

Trong khi đó, David Ranson – chuyên gia đến từ Wainwright Economics – nêu lên một vài câu hỏi khá thú vị về quan điểm hiện đang phổ biến trên thế giới: một đồng yên yếu hơn và lạm phát là những điều tốt cho nền kinh tế Nhật Bản trong khi đồng yên mạnh và giảm phát là điều tồi tệ. 

Đây là bảng thứ nhất với các số liệu trong giai đoạn 1968-2012.

So với năm trước                            Thay đổi trong năm sau đó

Chỉ số giá sản xuất                         Tăng trưởng sản lượng công nghiệp (%)

Tăng hơn 9% (3 năm)                        -10

Tăng  3% - 9% (5 năm)                     -3,3

Tăng từ -3% đến +3% (33 năm)        -0,5

Giảm hơn 3% (3 năm)                         15,6

Bằng cách sử dụng các số liệu về thay đổi trong sản lượng công nghiệp, Ranson đang cố gắng giải quyết mối quan hệ vốn luôn luôn gây nhiều tranh cãi giữa nguyên nhân và kết quả. Tuy nhiên, bảng trên nhận được khá nhiều chỉ trích vì Ranson đã không phân chia các danh mục một cách đồng đều. 3/4 trong tổng số mẫu quan sát nằm trong mục tăng từ -3% đến 3%. 

Bởi vậy, ông đã đưa ra bảng số 2. Điểm đáng chú ý trong bảng này là Ranson coi vàng là một thước đo khá ổn định. Bởi vậy, đồng yên không được so sánh với các đồng tiền khác mà được so sánh với vàng. 

Những năm mà đồng yênThay đổi trong chỉ số giá sản xuất tích lũy 3 nămThay đổi trong giá cổ phiếu tích lũy 3 nămThay đổi trong sản lượng CN tích lũy 3 năm
Giảm hơn 10%              11,5%                3%               -2,3%
Thay đổi ít hơn 10%            3,5%                 24%                 8,8%
Tăng hơn 10%               -1,6%                     59%                         10,1%

Ở bảng này, có 21 năm đồng yên giảm hơn 10% hoặc tăng hơn 10% và 19 năm đồng yên thay đổi ít hơn 10%. Sẽ không có gì đáng ngạc nhiên khi thấy rằng đồng yên yếu sẽ kéo theo lạm phát tăng lên. Tuy nhiên, sẽ là đáng ngạc nhiên nếu như quan sát thấy đồng yên yếu dẫn đến thị trường chứng khoán ảm đạm và sản lượng công nghiệp sụt giảm. Như vậy, những lời tiên đoán thông thường là sai bét!



Nhật Bản Today - Thị trường chứng khoán Nhật Bản lao dốc không phanh trong khi nền kinh tế chưa có dấu hiệu khởi sắc rõ rệt. Người ta đang hoài nghi về hiệu quả của Abenomics.


Thị trường chứng khoán Nhật Bản liên tục lao dốc trong những phiên gần đây. Phiên hôm nay (3/6), Chỉ số Nikkei 225 giảm 3,7%, xuống còn 13.261,82 điểm – thấp nhất kể từ ngày 18/4. So với hôm 22/5, chỉ số này đã giảm tổng cộng 15%. 

Xu hướng giảm điểm của Thị trường chứng khoán khiến người ta đặt ra câu hỏi về tâm lý hân hoan chào đón chính sách kinh tế Abenomics của Thủ tướng Shinzo Abe. Trong bài báo được đăng tải trên tờ Financial Times, cây bút kỳ cựu Martin Wolf lên tiếng chỉ trích những người đang gạt bỏ ý nghĩ cho rằng Abenomics là một thất bại lớn: “Đây là một điều lố bịch. Abenomics có thể thất bại. Tuy nhiên, chắc chắn nguyên nhân không phải vì lợi suất trái phiếu sẽ tăng lên hay thị trường chứng khoán chao đảo”. 

Ý kiến của Martin Wolf có phần đúng. Đầu tiên, mục tiêu của Abenomics là cho phép Nhật Bản thoát khỏi bẫy giảm phát bằng cách đẩy tăng GDP danh nghĩa và giúp các doanh nghiệp Nhật Bản sử dụng “núi” tiền mặt dư thừa. Tuy nhiên, chắc chắn đây sẽ là một quá trình diễn ra chậm chạp. Trong khi đó, đà tăng của Thị trường chứng khoán (có phần lớn nguyên nhân là hiệu ứng thúc đẩy niềm tin) chỉ giúp ích một phần nhỏ. 

Cho đến nay, vẫn khó để có thể nhận ra những hiệu ứng đối với các khách hàng Nhật Bản. Mặc dù tăng trưởng trong tháng 4, Thị trường chứng khoán Nhật Bản đã giảm mạnh trong tháng 3. Các doanh nghiệp nhỏ cũng ở trong tình trạng tương tự. Shoko Chukin – chỉ số thể hiện niềm tin của các doanh nghiệp nhỏ -  đã sụt giảm 2 tháng liên tiếp. Theo kế hoạch, thuế tiêu dùng sẽ tăng mạnh từ 5% lên 8% trong tháng 4/2014 và lên 10% trong tháng 10/2005. Năm 1997, thuế tiêu dùng tăng lên được cho là đã phá hủy sự phục hồi của nền kinh tế Nhật Bản. Do đó, trong trung hạn, đây là nỗi lo lắng lớn. 

Nhận định về lợi suất trái phiếu của Martin Wolf cần được xem xét lại. Nếu lợi suất trái phiếu chỉ tăng nhẹ như thời gian trước đây, mọi thứ vẫn ổn. Tuy nhiên, nếu lợi suất tăng mạnh, đây là vấn đề nghiêm trọng cho chính phủ Nhật Bản – đất nước có tỷ lệ nợ lớn hơn 200% GDP. Andrew Balls – chuyên gia đến từ quỹ đầu tư trái phiếu lớn nhất thế giới Pimco – cho rằng vẫn chưa rõ liệu Ngân hàng Trung ương Nhật Bản có thể kiểm soát tốt quá trình cân bằng đà tăng của lợi suất trái phiếu (phản ánh nền kinh tế có diễn biến tích cực) với những tác dụng tiêu cực ảnh hưởng đến tình hình tài chính của chính phủ hay không. Tất nhiên, Nhật Bản có thể tài trợ các khoản nợ bằng nguồn vốn trong nước. Tuy nhiên, giống như những gì chuyên gia Rob Carnell của ING đã chỉ ra:

Trong những năm gần đây, vị thế này bắt đầu thay đổi. Cán cân thương mại của Nhật Bản đã chuyển từ trạng thái thặng dư sang thâm hụt. Điều này có thể đe dọa đến vị thế chủ nhà của Nhật Bản trên thị trường trái phiếu chính phủ Nhật Bản (JGB). Hiện nay, thị trường này được sở hữu bởi khu vực tài chính của Nhật Bản. Gần như không có định chế nào có thể thoái vốn khỏi các khoản JGB bởi họ lo sợ sẽ châm ngòi cho một cuộc tháo chạy khỏi loại tài sản này. Tuy nhiên, điều này sẽ không được đảm bảo nếu như các nhà đầu tư nước ngoài trở thành bộ phận chính chi phối thị trường JGB. 

Nếu như lợi suất trái phiếu tăng đột ngột, khu vực tài chính sẽ lỗ lớn. Bởi vậy, Carnell rút ra kết luận giả thiết trên không được phép xảy ra: 

Sự phụ thuộc vào lãi suất và lợi suất trái phiếu ở mức thấp của Nhật Bản cho thấy nước này cần phải duy trì hiện trạng bằng mọi giá. Và, nếu như điều đó có nghĩa là BoJ phải tiếp tục in tiền để mua JGB và kiểm soát lợi suất trái phiếu.

Trong khi đó, David Ranson – chuyên gia đến từ Wainwright Economics – nêu lên một vài câu hỏi khá thú vị về quan điểm hiện đang phổ biến trên thế giới: một đồng yên yếu hơn và lạm phát là những điều tốt cho nền kinh tế Nhật Bản trong khi đồng yên mạnh và giảm phát là điều tồi tệ. 

Đây là bảng thứ nhất với các số liệu trong giai đoạn 1968-2012.

So với năm trước                            Thay đổi trong năm sau đó

Chỉ số giá sản xuất                         Tăng trưởng sản lượng công nghiệp (%)

Tăng hơn 9% (3 năm)                        -10

Tăng  3% - 9% (5 năm)                     -3,3

Tăng từ -3% đến +3% (33 năm)        -0,5

Giảm hơn 3% (3 năm)                         15,6

Bằng cách sử dụng các số liệu về thay đổi trong sản lượng công nghiệp, Ranson đang cố gắng giải quyết mối quan hệ vốn luôn luôn gây nhiều tranh cãi giữa nguyên nhân và kết quả. Tuy nhiên, bảng trên nhận được khá nhiều chỉ trích vì Ranson đã không phân chia các danh mục một cách đồng đều. 3/4 trong tổng số mẫu quan sát nằm trong mục tăng từ -3% đến 3%. 

Bởi vậy, ông đã đưa ra bảng số 2. Điểm đáng chú ý trong bảng này là Ranson coi vàng là một thước đo khá ổn định. Bởi vậy, đồng yên không được so sánh với các đồng tiền khác mà được so sánh với vàng. 

Những năm mà đồng yênThay đổi trong chỉ số giá sản xuất tích lũy 3 nămThay đổi trong giá cổ phiếu tích lũy 3 nămThay đổi trong sản lượng CN tích lũy 3 năm
Giảm hơn 10%              11,5%                3%               -2,3%
Thay đổi ít hơn 10%            3,5%                 24%                 8,8%
Tăng hơn 10%               -1,6%                     59%                         10,1%

Ở bảng này, có 21 năm đồng yên giảm hơn 10% hoặc tăng hơn 10% và 19 năm đồng yên thay đổi ít hơn 10%. Sẽ không có gì đáng ngạc nhiên khi thấy rằng đồng yên yếu sẽ kéo theo lạm phát tăng lên. Tuy nhiên, sẽ là đáng ngạc nhiên nếu như quan sát thấy đồng yên yếu dẫn đến thị trường chứng khoán ảm đạm và sản lượng công nghiệp sụt giảm. Như vậy, những lời tiên đoán thông thường là sai bét!


Thứ Tư, 29 tháng 5, 2013

Nhật Bản Today - Phụ nữ được cho là nguồn tài nguyên chưa được sử dụng đúng mức nhất ở Nhật Bản.
Đối với một thủ tướng đang tìm cách vực dậy một nền kinh tế thì những con số đằng sau cái gọi là "womenomics"(lao động nữ) ở Nhật Bản thật sự rất hấp dẫn.

Lao động nữ có thể cứu kinh tế Nhật Bản?

Kathy Matsui, người đứng đầu bộ phận chiến lược thị trường của Goldman Sachs tại Nhật Bản cho biết: "Nếu thu hẹp được khoảng cách tỷ lệ nam giới Nhật Bản làm việc hiện là 80%, cao ngất trong các nước thuộc Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD), với tỷ lệ nữ giới làm việc, hiện đang ở khoảng 60%, thì chúng ta sẽ có thêm khoảng 8,2 triệu lao động vào lực lượng lao động của Nhật Bản”. Bà cho biết thêm rằng, lực lượng lao động nữ này có thể nâng GDP của Nhật Bản lên tới 14%.

Hiện Thủ tướng Abe đang nỗ lực để buộc các công ty phải hành động. Ông đã đặt mục tiêu mỗi công ty phải có ít nhất một nữ lãnh đạo, ưu đãi thuế cho những công ty khuyến khích các bà mẹ trở lại làm việc.

Mặc dù cơ hội làm việc bình đẳng cho nữ giới đã được ghi thành luật vào năm 1986, nhưng quyền bình đẳng thật sự trong các công ty Nhật Bản vẫn còn quá hiếm hoi.

Naoko Toyoda đã làm việc 10 năm cho một công ty công nghệ thông tin nhưng  cô bị giáng chức khi quay trở lại làm việc sau khi sinh con. Cô cho biết: "Những phụ nữ lựa chọn không có con có thể tiếp tục tiến lên các nấc thang tiếp theo trong sự nghiệp, trong khi những người có con sẽ bị buộc phải ‘bán nghỉ hưu’”.

Dù vậy cô không mong đợi nhận được sự linh hoạt từ phía công ty. Cô nói: “Một khi có ngoại lệ, những bà mẹ khác sẽ phàn nàn rằng họ không được đối xử như vậy”. Vì vậy cô đã bỏ việc.

Theo Goldman Sachs, khoảng 70% phụ nữ Nhật Bản chọn cách bỏ việc sau khi có con, con số này cao gấp hơn 2 lần so với Mỹ và Đức.

Nhưng không giống như Mỹ và Đức, nơi việc chăm sóc con là nguyên nhân chính khiến phụ nữ phải bỏ việc, ở Nhật Bản, môi trường làm việc không khuyến khích phụ nữ đã khiến họ từ bỏ công việc.

Một nghiên cứu năm 2011 của Trung tâm Chính sách Công việc Cuộc sống phát hiện ra rằng ba phần tư phụ nữ Nhật Bản muốn quay trở lại làm việc sau khi họ đã có con, nhưng chỉ có 43% mong đợi có sự nghiệp như trước kia. Những người trở lại làm việc có xu hướng bị cắt giảm tiền lương và thường cảm thấy bị gạt ra ngoài trong công ty.

Hãng Mỹ phẩm khổng lồ Shiseido được cho là một trong nhưng công ty khuyến khích phụ nữ làm việc sau sinh con tốt nhất tại Nhật Bản . Từ năm 1990, chương trình hỗ trợ chăm sóc trẻ em của công ty này liên tục được phát triển, tạo điều kiện cho các bà mẹ có thời gian chăm con cái, giờ làm việc ngắn hơn, có trợ cấp chăm sóc con và có nhà trẻ trong khuôn viên của công ty. Shishedo cũng có nhiều kế hoạch hành động về bình đẳng giới nhằm thúc đẩy tỷ lệ các nhà lãnh đạo nữ.

Shigeto Ohtsuki, giám đốc điều hành nhân lực tại Shiseido cho rằng mặc dù Shiseido là một trong những công ty khuyến khích nữ giới làm việc tốt nhất tại Nhật Bản nhưng vẫn còn cần phải hành động nhiều hơn nữa. Bà nói: "Tỷ lệ lãnh đạo nữ tại Tập đoàn Shiseido Nhật Bản, đại diện cho 25.000 nhân viên vẫn chỉ có 25,6% trong khi đó tỷ lệ lãnh đạo nữ ở các chi nhánh nước ngoài với 20.000 nhân viên hiện đã là gần 60%.

Yuki Honda làm việc cho Shiseido vào năm 1989. Cô gặp chồng mình có và họ có hai con. Cô cảm thấy biết ơn công ty vì đã tiếp tục hỗ trợ và khuyến khích cô làm việc. Cô nói: "Tôi nghĩ tôi đã rất may mắn khi làm việc với công ty này vì họ không cho rằng phụ nữ chúng tôi nên bỏ việc sau khi sinh con, họ giúp đỡ chúng tôi để chúng tôi có thể tiếp tục làm việc”.

Triển vọng dân số của Nhật Bản gần đây khá ảm đạm khi tỷ lệ sinh đang bị thu hẹp lại và dân số già ngày càng tăng. Quỹ tiền tệ quốc tế IMF dự báo dân số Nhật Bản sẽ giảm khoảng 30% vào năm 2055. Những chính sách thúc đẩy của ông Abe nhằm khiến cho môi trường làm việc thuận lợi hơn đối với phụ nữ sau khi sinh con là một trong những vấn đề quan trọng trong sự sống còn của nền kinh tế.

Nhật Bản Today - Phụ nữ được cho là nguồn tài nguyên chưa được sử dụng đúng mức nhất ở Nhật Bản.
Đối với một thủ tướng đang tìm cách vực dậy một nền kinh tế thì những con số đằng sau cái gọi là "womenomics"(lao động nữ) ở Nhật Bản thật sự rất hấp dẫn.

Lao động nữ có thể cứu kinh tế Nhật Bản?

Kathy Matsui, người đứng đầu bộ phận chiến lược thị trường của Goldman Sachs tại Nhật Bản cho biết: "Nếu thu hẹp được khoảng cách tỷ lệ nam giới Nhật Bản làm việc hiện là 80%, cao ngất trong các nước thuộc Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD), với tỷ lệ nữ giới làm việc, hiện đang ở khoảng 60%, thì chúng ta sẽ có thêm khoảng 8,2 triệu lao động vào lực lượng lao động của Nhật Bản”. Bà cho biết thêm rằng, lực lượng lao động nữ này có thể nâng GDP của Nhật Bản lên tới 14%.

Hiện Thủ tướng Abe đang nỗ lực để buộc các công ty phải hành động. Ông đã đặt mục tiêu mỗi công ty phải có ít nhất một nữ lãnh đạo, ưu đãi thuế cho những công ty khuyến khích các bà mẹ trở lại làm việc.

Mặc dù cơ hội làm việc bình đẳng cho nữ giới đã được ghi thành luật vào năm 1986, nhưng quyền bình đẳng thật sự trong các công ty Nhật Bản vẫn còn quá hiếm hoi.

Naoko Toyoda đã làm việc 10 năm cho một công ty công nghệ thông tin nhưng  cô bị giáng chức khi quay trở lại làm việc sau khi sinh con. Cô cho biết: "Những phụ nữ lựa chọn không có con có thể tiếp tục tiến lên các nấc thang tiếp theo trong sự nghiệp, trong khi những người có con sẽ bị buộc phải ‘bán nghỉ hưu’”.

Dù vậy cô không mong đợi nhận được sự linh hoạt từ phía công ty. Cô nói: “Một khi có ngoại lệ, những bà mẹ khác sẽ phàn nàn rằng họ không được đối xử như vậy”. Vì vậy cô đã bỏ việc.

Theo Goldman Sachs, khoảng 70% phụ nữ Nhật Bản chọn cách bỏ việc sau khi có con, con số này cao gấp hơn 2 lần so với Mỹ và Đức.

Nhưng không giống như Mỹ và Đức, nơi việc chăm sóc con là nguyên nhân chính khiến phụ nữ phải bỏ việc, ở Nhật Bản, môi trường làm việc không khuyến khích phụ nữ đã khiến họ từ bỏ công việc.

Một nghiên cứu năm 2011 của Trung tâm Chính sách Công việc Cuộc sống phát hiện ra rằng ba phần tư phụ nữ Nhật Bản muốn quay trở lại làm việc sau khi họ đã có con, nhưng chỉ có 43% mong đợi có sự nghiệp như trước kia. Những người trở lại làm việc có xu hướng bị cắt giảm tiền lương và thường cảm thấy bị gạt ra ngoài trong công ty.

Hãng Mỹ phẩm khổng lồ Shiseido được cho là một trong nhưng công ty khuyến khích phụ nữ làm việc sau sinh con tốt nhất tại Nhật Bản . Từ năm 1990, chương trình hỗ trợ chăm sóc trẻ em của công ty này liên tục được phát triển, tạo điều kiện cho các bà mẹ có thời gian chăm con cái, giờ làm việc ngắn hơn, có trợ cấp chăm sóc con và có nhà trẻ trong khuôn viên của công ty. Shishedo cũng có nhiều kế hoạch hành động về bình đẳng giới nhằm thúc đẩy tỷ lệ các nhà lãnh đạo nữ.

Shigeto Ohtsuki, giám đốc điều hành nhân lực tại Shiseido cho rằng mặc dù Shiseido là một trong những công ty khuyến khích nữ giới làm việc tốt nhất tại Nhật Bản nhưng vẫn còn cần phải hành động nhiều hơn nữa. Bà nói: "Tỷ lệ lãnh đạo nữ tại Tập đoàn Shiseido Nhật Bản, đại diện cho 25.000 nhân viên vẫn chỉ có 25,6% trong khi đó tỷ lệ lãnh đạo nữ ở các chi nhánh nước ngoài với 20.000 nhân viên hiện đã là gần 60%.

Yuki Honda làm việc cho Shiseido vào năm 1989. Cô gặp chồng mình có và họ có hai con. Cô cảm thấy biết ơn công ty vì đã tiếp tục hỗ trợ và khuyến khích cô làm việc. Cô nói: "Tôi nghĩ tôi đã rất may mắn khi làm việc với công ty này vì họ không cho rằng phụ nữ chúng tôi nên bỏ việc sau khi sinh con, họ giúp đỡ chúng tôi để chúng tôi có thể tiếp tục làm việc”.

Triển vọng dân số của Nhật Bản gần đây khá ảm đạm khi tỷ lệ sinh đang bị thu hẹp lại và dân số già ngày càng tăng. Quỹ tiền tệ quốc tế IMF dự báo dân số Nhật Bản sẽ giảm khoảng 30% vào năm 2055. Những chính sách thúc đẩy của ông Abe nhằm khiến cho môi trường làm việc thuận lợi hơn đối với phụ nữ sau khi sinh con là một trong những vấn đề quan trọng trong sự sống còn của nền kinh tế.

Nhật bản Today - Bộ trưởng Bộ Kinh tế, Thương mại và Công nghiệp Nhật Bản Toshimitsu Motegi vừa đề xuất một số chính sách mới, trong đó có việc miễn giảm thuế thu nhập doanh nghiệp, nhằm khai thác thêm các thị trường mới, qua đó thúc đẩy đầu tư tư nhân, khi tăng trưởng đầu tư tư nhân đóng vai trò quan trọng trong việc đưa nền kinh tế thoát khỏi tình trạng giảm phát dai dẳng.

Nhật Bản thu hút đầu tư tư nhân để cải thiện kinh tế

Ngoài ra, ông Motegi cũng đề nghị Chính phủ Nhật Bản từng bước đẩy mạnh tái cơ cấu doanh nghiệp, đồng thời cam kết sẽ đưa ra các biện pháp nhằm thực hiện chiến lược thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của Chính phủ. 

Lời cam kết của Bộ trưởng Motegi được đưa ra sau khi Thủ tướng Shinzo Abe tuyên bố Nhật Bản sẽ đặt mục tiêu nâng tổng vốn đầu tư doanh nghiệp thêm 10% trong vòng 3 năm tới lên 70 nghìn tỷ yen/năm, tương đương mức trước khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008. 

Chiến lược tăng trưởng kinh tế mà Chính phủ Nhật Bản đưa ra là một trong "ba mũi tên" của chính sách kinh tế của nước này, cùng với các chương trình nới lỏng tiền tệ mạnh bạo và các dự án công quy mô lớn, nhằm đưa kinh tế Nhật Bản thoát khỏi "hố sâu" giảm phát, vốn đã kéo dài gần hai thập niên qua. 

Theo Bộ trưởng Motegi, Chính phủ Nhật Bản nên hậu thuẫn một cơ chế mà theo đó, các doanh nghiệp không cần phải có sự bảo lãnh khi tiến hành vay vốn lần đầu.

Bên cạnh đó, ông cũng kêu gọi Chính phủ triển khai một hệ thống "tài chính năng lượng sạch," cho phép các hộ gia đình và các công ty nhỏ sử dụng các tấm thu năng lượng Mặt Trời và các bộ pin sử dụng năng lượng Mặt Trời./.

Nhật bản Today - Bộ trưởng Bộ Kinh tế, Thương mại và Công nghiệp Nhật Bản Toshimitsu Motegi vừa đề xuất một số chính sách mới, trong đó có việc miễn giảm thuế thu nhập doanh nghiệp, nhằm khai thác thêm các thị trường mới, qua đó thúc đẩy đầu tư tư nhân, khi tăng trưởng đầu tư tư nhân đóng vai trò quan trọng trong việc đưa nền kinh tế thoát khỏi tình trạng giảm phát dai dẳng.

Nhật Bản thu hút đầu tư tư nhân để cải thiện kinh tế

Ngoài ra, ông Motegi cũng đề nghị Chính phủ Nhật Bản từng bước đẩy mạnh tái cơ cấu doanh nghiệp, đồng thời cam kết sẽ đưa ra các biện pháp nhằm thực hiện chiến lược thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của Chính phủ. 

Lời cam kết của Bộ trưởng Motegi được đưa ra sau khi Thủ tướng Shinzo Abe tuyên bố Nhật Bản sẽ đặt mục tiêu nâng tổng vốn đầu tư doanh nghiệp thêm 10% trong vòng 3 năm tới lên 70 nghìn tỷ yen/năm, tương đương mức trước khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008. 

Chiến lược tăng trưởng kinh tế mà Chính phủ Nhật Bản đưa ra là một trong "ba mũi tên" của chính sách kinh tế của nước này, cùng với các chương trình nới lỏng tiền tệ mạnh bạo và các dự án công quy mô lớn, nhằm đưa kinh tế Nhật Bản thoát khỏi "hố sâu" giảm phát, vốn đã kéo dài gần hai thập niên qua. 

Theo Bộ trưởng Motegi, Chính phủ Nhật Bản nên hậu thuẫn một cơ chế mà theo đó, các doanh nghiệp không cần phải có sự bảo lãnh khi tiến hành vay vốn lần đầu.

Bên cạnh đó, ông cũng kêu gọi Chính phủ triển khai một hệ thống "tài chính năng lượng sạch," cho phép các hộ gia đình và các công ty nhỏ sử dụng các tấm thu năng lượng Mặt Trời và các bộ pin sử dụng năng lượng Mặt Trời./.